Tổng số lượt xem trang

Được tạo bởi Blogger.

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

Tranh Dân gian Đông Hồ


Làng Đông Hồ nằm ven sông Đuống, cách Hà Nội chừng 40 km về phía
đông, xưa gọi là Đông Mại (hay Mái) thuộc tổng Hồ, huyện Siêu Loại, trấn Kinh
Bắc (nay là làng Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc). Đông Hồ có truyền
thống nghệ thuật lâu đời. Thuộc đất cũ làng ven sông nay còn lại vài tấm bia đá
trên nền chùa cổ.
Bịa dựng từ thời nhà Mạc (thế kỷ 16), cho ta ước đoán tuổi làng. Trên trán
tấm bia "Đô Hồ Tự Bi", khắc năm 1680, có chạm trong hình mặt nguyệt một đôi
chuột đang giã gạo. Vì chuột cũng là đề tài quen thuộc trong nghệ thuật dân gian,
ta có ít nhiều căn cứ để suy rằng Đông Hồ đã từng có nghề vẽ tranh dân gian, và
tranh có liên hệ tới ngôi chùa. Ngày nay, nghề in tranh khắc gỗ ở Đông Hồ không
còn nhộn nhịp như xưa, tuy vây, nhiều gia đình ở đây vẫn còn giữ được hàng trăm
ván khắc cổ, coi là của gia bảo, và hàng năm vẫn đem ra in lại thành những tranh
mới, khi có khách đặt hàng.
Tranh Đông Hồ in bằng tay trên bản gỗ khắc nổi. mỗi màu in có ván khắc
riêng (ngoại lệ, cũng có tranh tô màu phẩm bằng tay). Giấy in là giấy dó, thường
phủ một lớp phấn điệp hơi óng ánh, rất độc đáo.
Màu mực in chế từ những nguyên liệu cây cỏ đất đá dễ kiếm quanh vùng,
đen chế từ than lá tre khô, màu vàng từ hoa hoè hay quả dành dành, xanh lam chiết
từ lá chàm, đỏ tươi là bột son, còn trắng thì dùng vỏ trai sò nghiền mịn.
Tranh Đông Hồ chỉ bán trong dịp Tết Nguyên Đán, cho nên cả hình thức
(nét vẽ, màu sắc) lẫn nội dung đều hợp tiết xuân, và phản ảnh khát vọng dân gian
được sống phong lưu sung túc. Đây là một loại hình nghệ thuật mang bản sắc dân
tộc đâm đà, có truyền thống sản xuất và thưởng thức hàng mấy trăm năm.
Đi tìm vị thế mới cho tranh Đông Hồ
Sẽ có một ngày tranh Đông Hồ lại rực rỡ trên tường nhà mọi gia đình đón
Tết, trong tay các em bé như một món quà thông dụng... và tôi có thể ngồi vẽ
những bức tranh Đông Hồ hiện đại...". Đó là mơ ước của họa sĩ Nguyễn Đăng
Khoa, "hậu duệ" của một dòng họ nổi tiếng trong dòng tranh Đông Hồ
Trong thời kỳ cực thịnh của mình, những năm đầu thế kỷ trước đến 1930,
tranh Đông Hồ đủ sức mang lại gia thế cho cả một dòng họ. Cùng với cảnh "đổ
tranh" tấp nập trên bến dưới thuyền xuôi đi khắp ngả từ 20 tháng Chạp hàng năm,
tranh Đông Hồ gây dựng cơ ngơi và tên tuổi lâu đời cho họ Nguyễn Đăng, một
trong những dòng họ làm tranh chủ soái của làng Hồ.
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Khiêm, người đầu tiên đứng ra nhận việc đưa
tranh vào bảo tàng cho Nhà nước, nhớ lại: "Sinh thời, thân phụ tôi từng chứa đầy
tận nóc hai gian nhà vài ngàn bản khắc in nét và mầu, tức là đủ cho khoảng ngàn
tranh mẫu hoàn chỉnh. Đặc biệt, tranh Đông Hồ thiện về trực giác, và có phần cảm
tính. Mỗi họ làm tranh lại có cách pha mầu, tạo nét, tiết chế khác nhau, làm nên
phong cách riêng".
Cháu ba đời cụ Khiêm, cử nhân mỹ thuật Nguyễn Đăng Khoa tiếp tục câu
chuyện của dòng họ một cách kịch tính hơn. Năm 2000, mới tốt nghiệp khoa sơn
mài trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp, Khoa đã lang thang nhiều nơi: Bát
Tràng, Phù Lãng, những ngôi chùa nghìn tuổi ở Hà Tây, Bắc Ninh... trong vài năm
để săn tìm bóng dáng hay một gợi ý của thành công.
Chính Khoa cũng không nhận ra lối đi ngay dưới chân: "Một đêm trăng
trong chùa Bút Tháp sau vài tuần rượu suông, tôi bị họa sĩ Phan Cẩm Thượng
"mắng" khá phũ, nhưng chân tình: Thế mà không nghĩ ra? Còn phải tìm đường ở
đâu ngoài tự đứng vững trên chính truyền thống gia đình mình?".
Khoa đã phải mất hai năm ròng, vừa dè dặt nghe ngóng vừa âm thầm khởi
động tài lực rồi mới dám quyết tâm chơi tới cùng với nghiệp: "Kể từ đó tôi vẫn mơ
thấy những bức tranh "gà lợn"của dòng họ Nguyễn Đăng. Không phải thứ in lưới
và dùng bột mầu lem nhem vẫn bán đầy ở các khu du lịch. Mầu đỏ cam của son,
vàng chói của hoa hòe, xanh óng lá mạ non... lên hết sắc độ tự nhiên, tươi rói trên
nền điệp trong veo trắng óng, với nét đen vừa mềm mại vừa chắc khỏe của than lá
tre bồi hồ. Một tinh thần hết sức hồn nhiên, khỏe khoắn, biểu cảm một cách giản
dị, không thiếu tính hài hòa bay bổng. Bức tranh như vậy "trẻ" mãi tới năm chục
năm sau không suy suyển. Tôi mơ phục hưng dòng tranh của họ Nguyễn Đăng rực
rỡ như tinh thần của người xưa...".
"Đi cày" nuôi tranh
Cứ kiếm được bao nhiêu tiền ở Hà Nội, Khoa lại đem lên Thuận Thành lo
chi phí cho việc khắc ván, làm mầu. Thứ than lá tre hiện nay chỉ còn duy nhất cụ
Phiến, nghệ nhân làng Hồ đốt được. Pha chế ra sao cho nhuyễn, trong bất kỳ thời
tiết hanh hay nồm cũng không bị chua, bị vón, thì chỉ có Khoa nắm được bí quyết,
thay mặt cho dòng họ và những người có kinh nghiệm lâu đời nay đã thành người
thiên cổ..
Hiện nay, hơn 70 đầu tranh Đông Hồ của họ Nguyễn Đăng đã được "phục
sinh" rực rỡ từ bản mẫu gốc, vốn được cụ Khiêm "lo xa", mỗi lần đưa vào bảo
tàng đều giữ lại cho gia đình một bản. Tổng cộng hơn 200 tranh gốc loại này đang
ở trong tay Khoa.
Tranh của Khoa và gia đình hiện đang gửi bán tại một số Gallery để giữ
những khách mua khó tính. Hằng năm, gia đình thường phải bù lỗ cho việc làm
tranh, một khoản không quá lớn đối với thu nhập mức ngang viên chức nhà nước,
đủ để không khiến họ phải nản lòng.
Khoa tâm sự: Việc đầu tiên tôi phải vào núi Thiên Thai, ngọn núi nổi tiếng
trong thơ Hoàng Cầm mua gỗ thị làm ván khắc. Ba cây thị cổ thụ vừa người ôm,
bạt thân vỏ, còn lại chừng khối rưỡi gỗ, đủ cho nghìn bản khắc đủ kích cỡ. Loại
bản khắc này để tới trăm năm không mối mọt. Ngoài ra, gia đình tôi thừa hưởng từ
đời các cụ khoảng vài trăm bản khắc như thế, đến nay vẫn còn nguyên vẹn có thể
khai thác ngon lành. Mục tiêu là gìn giữ nguyên vẹn "gia tài" cho đời sau. Có
những ván đã khắc xong phải nghiến răng chẻ làm củi vì chưa lên được tinh thần
của người xưa".
Tình trạng "đi cày nuôi tranh" theo Khoa chỉ có thể kéo dài nhiều nhất dăm
năm. Sau đó, tranh Đông Hồ họ Nguyễn Đăng phải trở thành một thương hiệu
thực sự bằng sự phục sinh mà ngoại trừ một vài gia đình nghệ nhân làng Hồ có thể
"ra tay" tương tự, không một thương nhân giàu tưởng tượng hay họa sĩ biết kinh
doanh nào làm nổi.
Khoa nói: Chẳng có gì ngăn cản tôi nghĩ tới một ngày... Ngày đó tranh
Đông Hồ lại rực rỡ trên những bức tường sơn của mọi gia đình đón Tết, trong tay
các em bé, như một món quà thông dụng và rẻ tiền bằng chính sức thu hút của
mình, vẻ đẹp chất phác, tươi nguyên, huy hoàng của truyền thống. Biết đâu lúc đó
tôi lại có thể ngồi vẽ những bức tranh Đông Hồ hiện đại với đủ mầu vẻ của cuộc
sống này như ông tôi hay cụ Chế, cụ Sần xưa, từng vẽ cảnh cầm cờ đỏ sao vàng đi
cướp chính quyền những năm đầu cách mạng? Còn hiện tại, chỉ dốc sức vào khôi
phục hoàn hảo bộ tranh gốc của gia đình, đưa nó vào vị trí không thay thế nổi của
thị trường cũng đủ là một sự nghiệp".