Friedrich Nietzsche
Buổi hoàng hôn của những thần tượng
hay Làm cách nào triết lí với cây búa
hay Làm cách nào triết lí với cây búa
Nguyễn Hữu Hiệu dịch và giới thiệu
Lời giới thiệu
1.
Năm 1888 trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche
Mặt trời lên cao đỉnh rồi bùng vỡ trong Van Gogh trong năm 1888. Đó cũng chính là thời kì sáng tạo dữ dội nhất của ông. Bóng tối lưỡng lự đã bị lùa ra khỏi tranh. Bàn tay trở nên chính xác một cách tàn bạo. Nét cọ tung hoành như sấm sét. Màu sắc loé sáng trong khi tâm trí đã bắt đầu hôn ám. Nhưng trong buổi hoàng hôn của tâm thức đó, viễn tượng đã kết hợp một cách kì diệu với thực tại. Ngày 21 tháng 4 năm sau, Van Gogh viết cho em: “Điều an ủi anh đôi chút là anh bắt đầu coi sự điên cuồng như một chứng bệnh giống như những bệnh tật khác, trong khi đó ngay cả trong những cơn khủng hoảng, anh thấy dường như tất cả những gì anh tưởng tượng trước kia đều là thực tại cả.” Và ông lăn xả vào công việc, vẽ từ sáng tới tối. Người ta kể lại rằng những người bạn đồng phòng với ông khi đi ra thấy ông đang vẽ một tấm tranh, vài giờ sau trở vào đã thấy ông vẽ một tấm tranh khác. Ông làm việc như kẻ bị quỉ ám, “j’ai une fureur sourde de travail plus que jamais” (9/1889). Ông không thể ra khỏi hội hoạ, nghĩa là ra khỏi thực tại, làm mồi cho điên cuồng và phiền não. “Trong tất cả mọi trường hợp, tìm cách trung thành với sự thực có lẽ là một phương thuốc để chống lại bệnh tật đang làm anh lo âu” (thư cho Théo, 12 tháng 2 năm 1890). Có lẽ Vincent van Gogh linh cảm thấy rằng phần ánh sáng dành cho ông sắp hết và ông phải tận dụng nó, nhìn lần cuối cùng trong ánh sáng viễn tượng những thực tại đã bị thói quen giả dối chôn vùi. Trường hợp Nietzsche cũng tương tự như vậy. Năm 1888 là cực điểm sáng suốt và sáng tạo của Nietzsche, đồng thời cũng là cực độ của đau khổ và cô đơn của ông. Ngày 12 tháng 2 năm 1888, Nietzsche viết cho bá tước Seydlitz: “Bây giờ tôi cô đơn, cô đơn một cách phi lí; trong cuộc chiến tàn khốc và âm thầm mà tôi theo đuổi (dưới uy thế Đảo Hoán mọi Giá Trị) chống lại tất cả những gì đã được mọi người tôn sùng và quí trọng từ xưa tới nay, chính tôi đã trở thành một cái u hồn cốc mà không hay…” Trong tình cảnh đó ông chỉ cầu xin một điều: “Sự thanh bình, quên lãng, sự khoan dung của mặt trời và của mùa thu cho một cái gì đang muốn chín tới, cho sự chứng thực và biện minh của toàn thể con người tôi…” (thư cho Paul Dessen, 3 tháng Giêng năm 1888). Kết quả là năm tác phẩm cuối cùng, chín mùi nhất, mãnh liệt nhất của Nietzsche hoàn thành trong năm này: Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Kẻ chống Chúa, Nietzsche chống Wagner, Ecce Homo và tụng ca Dionysos.
Quả thực năm 1888 là cực điểm của cuộc đời và tư tưởng Nietzsche. Trước hết nó là cao độ của một thập niên đầy sáng tạo khởi đầu từ 1878 với Phàm phu, quá phàm phu, tác phẩm đầu tiên mà trong đó chan hoà ánh sáng thiên tài, kế đó Ý kiến tương hợp và châm ngôn (1879), Lữ khách và bóng hình mình (1880), Bình minh(1881), Tri thức hân hoan (1882 - bổ túc thêm năm 1887), Zarathustra đã nói như thế (1883–1885), Phi thiện ác (1886) và Phổ hệ luân lí (1887). Song song những tác phẩm trên, trong nhiều thập niên này Nietzsche còn đưa ra nhiều tư tưởng dũng mãnh quanh chủ đề Ý chí hùng cường. Sang năm 1888, Nietzsche bỏ Ý chí hùng cường và thay thế bằng Cuộc đảo hoán mọi giá trị, trong đó Kẻ chống Chúa, là tác phẩm mở đầu.
Năm 1888 còn có ý nghĩa cực điểm trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche ở chỗ toàn bộ tác phẩm viết trong năm này là những cuộc duyệt xét lại và toát lược lại toàn thể những chủ đề triết lí của ông và của hai ngàn năm triết học Tây phương trong ánh sáng chói loà cuối cùng của tâm thức, ở một cao độ buốt giá, bằng một bút pháp sắc bén, cô đọng. Sau đó là bóng tối và yên lặng hoàn toàn. Đầu tháng Giêng 1889, tinh anh ông đã vỗ cánh bay cao, và ông không viết thêm một dòng nào nữa mặc dầu thể phách còn ngồi lại mười năm nữa, tới tháng 8 năm 1990.
2.
Buổi hoàng hôn của những thần tượng
Tác phẩm Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào người ta triết lí với cây búa? (Götzen-Dämmerung, oder: Wie man mit dem Hammer philosophiert?)được viết trong khoảng thời gian từ cuối tháng Sáu tới đầu tháng Chín năm 1888 và được đem ấn hành vào tháng Mười cùng năm. Mới đầu tác phẩm mang tựa đề Sự nhàn rỗi của một tâm lí gia hay Những giờ nhàn cư của một tâm lí gia (Müssiggang eines Psychologen). Nhưng sau đó, theo lời yêu cầu của Peter Gast, một cao đồ trung thành của Nietzsche, đòi ông phải tìm một tựa đề “huy hoàng” hơn cho tác phẩm, Nietzsche nhượng bộ, phỏng theo nhan đề vở Hoàng hôn của những thần thánh (Götterdämmerung) của Wagner, đặt lại là Hoàng hôn của những thần tượng (Götzen-Dämmerung).
Thần thoại Bắc Âu kể rằng tất cả mọi thần thánh đều có ngày tàn mạt, ngày họ tan biến vào hư vô. Đó là buổi hoàng hôn của thần thánh. Richard Wagner đã mượn thần thoại này để dựng vở kịch thứ tư trong bộ Tứ ca bộ kịch (Tétralogie) của ông, Nietzsche thay đổi tựa đề và cả ý nghĩa. “Thần tượng” là biểu tượng Nietzsche dùng để chỉ chân lí. “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự sụp đổ của mọi chân lí.
Không một thực tại, một ý tưởng, một lí tưởng, một chân lí, một “thần tượng” nào tác phẩm này không chạm tới. Từ những chân lí vĩnh cửu đến những chân lí, giá trị mới mẻ. “Một cơn gió lớn thổi qua rặng cây… và trái chín rụng rơi tơi tả: những chân lí”. (Ecce Homo). Nhưng những cái người ta có thể lượm trong tay chẳng có gì ngọt ngào. Vì đó chỉ là những trái thối hư, thực phẩm vô vị đã hết dưỡng chất của hai ngàn năm qua cần phải liệng bỏ. Tất cả mọi chân lí đều nhạt phai và phải xoá đi, mọi thần tượng đều hết thiêng liêng và phải tiêu diệt. Duy chỉ có cuộc đời là vĩnh cửu. Tất cả mọi hiểu biết đều sai lầm, mọi luân lí đều độc hại. Duy chỉ có bản năng là tốt lành.
Đây là cuộc Tuyên chiến vĩ đại. Đây là cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lí trí, luân lí, tâm lí học, lòng ái quốc, vị tha, tình nhân loại… Đây là cuộc lột mặt nạ không thương tiếc những nhân vật, “những thần tượng” tượng trưng cho những chân lí, những giá trị cũ: Socrate, Platon, thiện ác, đẹp xấu… và những “thần tượng” tượng trưng cho những chân lí và giá trị mới: Renan, Rousseau, Sainte-Beuve, G. Eliot, George Sand, Schopenhauer, Comte, Kant, Schiller, Zola, Victor Hugo, Listz, Carlylle, nghệ thuật vị nghệ thuật, dân chủ, tiến bộ…
Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác phẩm này những tư tưởng hữu thể học quan trọng nhất của Nietzsche. Đúng hơn, chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là: hữu thể học truyền thống coi là “hữu thể chân thực” (Wahres-Sein) cái thực ra chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả đặc tính của phi thể (Nicht-Sein) và vô thể (Nichts) và chối bỏ, coi như “phi hữu” và phi thực cái thực ra là hữu thể đích thực và hữu thể duy nhất. Cái từ xưa tới nay, người ta coi là hiện thể đích thực, thực ra chỉ là mộng huyễn bào ảnh, trong khi cái từ xưa tới nay người ta coi là mộng huyễn bào ảnh lại chính là hiện thể chân thực. Cái từ xưa tới nay được coi là “hữu thể” (Sein) đối nghịch với biến dịch không có, trong khi chỉ có cái biến dịch hiện hữu mà thôi. Không có “hữu thể” siêu thời gian và không gian, cũng như không có tâm linh thế giới, Linh tượng giới (le monde des idées) hay thế giới của những ý tưởng vĩnh cửu mà chỉ có thế giới khả giác (monde sensible), hiện hữu trong không gian thời gian. Không có thế giới tự nội (monde en-soi), mà chỉ có thế giới hiển lộ (monde des apparences). Không có thế giới khác mà chỉ có thế giới này, thế giới chân thực, duy nhất, linh động mà nguyên động lực là ý chí hùng dũng. Không có thế giới nào khác. Tất cả những ý nghĩ, khát vọng về một thế giới khác chỉ là cách trả thù cuộc đời “bằng sự lạm dụng ảo tưởng” về một cuộc đời “tốt đẹp hơn”. Sự chia thế giới ra làm một thế giới “tự nội” và một thế giới “bề ngoài” là dấu hiệu của sự suy đồi- một triệu chứng của sa đoạ. “Sự kiện người nghệ sĩ đặt bề ngoài lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “bề ngoài” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa, nhưng mà là dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai… Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm,- hắn gật đầu nói “ừ” trước tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp của cuộc đời, hắn là kẻ theo Dionysos”.
Chương quan trọng nhất và cũng là trọng tâm của tác phẩm là chương “Lí trí trong triết học”. Trước đó là “Vấn đề Socrate”, sau đó là “Luân lí như một cái gì phản tự nhiên”. Trước kia Nietzsche lên án khoa học, triết học vì chúng bị đầu độc bởi luân lí. Bây giờ Nietzsche lên án luân lí, triết học, khoa học bởi chúng bị đầu độc bởi lí trí, hay đúng hơn, bởi những sự lầm lẫn lớn lao của lí luận. Những triết gia lầm lẫn lấy hậu quả làm nguyên nhân, nguyên nhân làm hậu quả. Nietzsche bài bác gắt gao phương trình quái gở và bệnh hoạn này của Socrate: lí trí = đức hạnh = hạnh phúc. Socrate, Platon là những triệu chứng suy đồi. Thế nào là suy đồi (décadence)? “Bị bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng đó là định thức của suy đồi, khi cuộc đời hướng thượng, hạnh phúc và bản năng là một.” Tất cả mọi sự tốt lành đều thuộc bản năng. Alles Gute ist Instinkt. Nietzsche coi như có bổn phận chống lại quan niệm cho Thượng Đế = thế giới khác của “hữu thể chân thực”. Vì quan niệm như thế, người ta bắt buộc phải coi rẻ những thực tại trần gian mà giác quan chứng nghiệm, khi coi chúng là hiển thể (Schein) không thực thể, và đi đến chỗ khước từ cuộc sống nhục cảm, lành mạnh, coi như “tội lỗi”. Theo Nietzsche, với Thượng Đế, người ta đặt thành tuyệt đối thể một hữu thể tưởng tượng, phi thời gian bên trên những thực tại trần gian, những cái duy nhất có thực thể trong dòng biến dịch. Một Thượng Đế, nếu được quan niệm như thế, sẽ làm nền tảng cho một thứ luân lí vô cùng nguy hại cho con người và cuộc đời. Đó là một hữu thể học luân lí hoá hay một luân lí hữu thể học hoá. Cần phải giải phóng hiện thể khỏi thứ hữu thể học hay luân lí này. Đó là một nhiệm vụ nặng nề mà Nietzsche gọi là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị”. Đó là công việc của người nghệ sĩ bi tráng, kẻ nói “ừ” trước tất cả mọi hồ nghi và khủng khiếp. Người nghệ sĩ bi tráng chọc thủng hiển thể để đạt tới thực thể một cách can đảm. Hắn dám chấp nhận cái chết của Thượng Đế và dám đập “bằng cây búa” tất cả những chân lí cắm rễ sâu nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống và thừa can đảm để gây nên những “âm thanh trống rỗng” của buổi chiều tà. Đi vào “Hoàng hôn của những thần tượng” và đương đầu với “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” là những sứ mệnh lịch sử của người nghệ sĩ bi tráng cũng như của tất cả những tinh thần tự do không chấp nhận làm rêu mốc bám trên những bậc thềm, những bờ tường nứt nẻ của những miếu đường hoang vắng nữa. Nếu “Hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự lạm phát của mọi chân lí, mọi giá trị thiết định lấy “thế giới chân thực” bên ngoài trần gian, bên kia đời sống làm bản vị, coi những kẻ bạc nhược sa đoạ là những kẻ làm giấy bạc, coi đền thờ là những ngân hàng và Thượng Đế là kẻ chế tài thì “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” chính là sự phá giá của tất cả những chân lí, những giá trị đó. Cả hai đều là những giai đoạn tất yếu và cần phải vượt qua của lịch sử. Chân lí, trần gian, cuộc đời sẽ và chỉ thuộc về những kẻ chân thực, dám đốt đi những bản di chúc hứa hẹn huy hoàng nhưng giả dối và giả tạo như tấm ngân phiếu không tiền bảo chứng, những kẻ sau khi buông rời cây búa phá huỷ còn đủ sức mạnh cầm tay cầy khai phá cánh đồng khả thể, khơi mở dòng đời, tạo dựng đời sống trong dòng Hồn nhiên của Biến dịch.
3.
Song luận
Sự thức tỉnh của nhân loại bắt đầu với song luận này: “Hoặc chúng ta phá huỷ sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta phá huỷ chính chúng ta” (Der Will zur Macht, III) Chúng ta đã phải trả giá khá đắt cho những “chân lí” thiêng liêng, những sai lầm in physiologicis (Ibid, II) Nietzsche tự coi như bổn phận việc “sửa soạn cho nhân loại một giây phút tuyệt vời trở về chính mình, một buổi giữa ngọ rực rỡ để quay về quá khứ và đưa mắt nhìn về tương lai, để rũ khỏi ách đô hộ của tình cờ và của những giáo sĩ và đặt câu hỏi tại sao và thế nào trong toàn bộ của nó lần thứ nhất, bổn phận này thiết yếu bắt nguồn từ lòng xác tín rằng nhân loại tự mình đã không đi theo đúng chính đạo, đã không được điều động bởi một thần tính mà trái lại đã để bị lôi cuốn và chế ngự bởi một bản năng tiêu cực, hư hỏng, bởi bản năng suy đồi mà nhân loại đặt lên hàng những giá trị tối thiêng liêng” (Ecce Homo, III, 2), vì thế “sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này từ xưa tới này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí”, hay cũng có thể nói như một con cú vọ chuyên soi mói những khía cạnh đen tối cuộc đời và thốt lên những tiếng bi ai. Đó là sự khôn ngoan của tinh thần nặng nề, tìm sự giải thoát bằng cách tiêu diệt ý chí sống. Nietzsche gây chiến chống lại chủ trương tiêu cực mệt mỏi đó. Kết quả của nỗ lực bền bỉ, can đảm, cứng cỏi, âm thầm này là sự hân hoan hay “tri thức hân hoan” theo ngôn ngữ Nietzsche. “Kẻ nào trèo lên núi cao, kẻ ấy tự cười mọi bi kịch giả tạo hay có thực.” Trên bàn thờ những giá trị mới, tiếng cười chiến thắng đã thay thế tiếng thở dài đầu hàng. “Tôi đã phong thánh tiếng cười, hỡi những con người siêu đẳng, hãy học cười!”. Bằng tiếng cười hồn nhiên ròn rã, chúng ta quét sạch mọi thần tượng trang trọng đăm chiêu và đón chào một thế giới tinh khôi rực rỡ.
Nguyễn Hữu Hiệu
Vạn Hạnh, 26-09-1971
Khai từ
Duy trì được sự thanh thản giữa một sự vụ u sầu và có thể biện minh quá độ chừng đâu phải là một nghệ thuật không đáng kể: tuy nhiên có điều gì cần thiết hơn thanh thản chăng? Chẳng việc gì thành công nếu lòng hăng hai chẳng tham dự vào. Chỉ có sự thặng dư của sức mạnh mới là bằng chứng của sức mạnh. Đảo hoán mọi Giá Trị, dấu hỏi quá đen, quá lớn hắt bóng tối lên kẻ đặt ra nó, -định mệnh của một công việc như vậy buộc người ta từng giây phút phải lao thẳng vào mặt trời, rũ bỏ vẻ trang nghiêm đã đè ta quá nặng. Tất cả mọi phương tiện đều được biện minh, mọi “cơ hội” đều là cơ hội tốt. Trên tất cả, chiến tranh. Chiến tranh luôn là sự minh mẫn thận trọng ghê gớm của tất cả những tinh thần đã trở nên quá chuyên tâm, của tất cả những tinh thần đã trở nên quá thẳm sâu; khả năng chữa trị đã nằm ngay trong vết thương. Một câu phương ngôn mà xuất xứ tôi cố tình dấu nhẹm óc tò mò trí thức, từ lâu đã trở thành phương châm của tôi:
increscunt animi, virescit volnere virtus [1]
Một hình thức chữa trị khác, trong một vài trường hợp còn thích hợp với tôi hơn nữa, đó là thăm dò những thần tượng… Trên thế giới có nhiều thần tượng hơn là thực tại: đó là “ác nhãn” của tôi đối với thế giới này, đó cũng là “ác nhĩ” của tôi nữa… Ở đây đặt ra những câu hỏi với một chiếc búa và có thể nhận được như một hồi âm cái âm thanh trống rỗng thốt lên tự lòng hiu hiu tự đắc - thích thú thay cho kẻ nào có một đôi tai khác nữa sau đôi tai của mình, - đối với tôi, một tâm lý gia và một kẻ đánh bẫy chuột cố cựu, trước sự hiện diện của kẻ đó quả thực những gì muốn thủ khẩu như bình cũng phải thốt lên tiếng nói…
Cả cuốn sách này nữa - nhan đề đã bộc lộ nội dung - trước hết là một sự giải trí, một chấm ánh sáng, một cuộc đào thoát vào những giờ nhàn rỗi của một tâm lý gia. Có thể còn là một cuộc chiến tranh mới nữa? Và biết đâu có thể bắt được quả tang những bí mật của những thần tượng mới?... Cuốn tiểu luận này là một cuộc khai chiến vĩ đại; còn về vấn đề nhằm thăm dò những thần tượng, lần này không phải là những thần tượng thời đại mà là những thần tượng vĩnh cửu ở đây sẽ bị đụng chạm đến bằng một chiếc búa như thể bằng cái âm thoa - cuối cùng không còn những thần tượng cổ kính nữa… Cũng không còn những thần tượng trống rỗng nữa… Nhưng điều đó không ngăn cản được người ta tin tưởng nhất; cũng như không ngăn cản người ta, ngay cả trong những trường hợp cao quí nhất, không gọi là thần tượng nữa…
Turin, 30 tháng Chín, 1888, ngày hoàn tất cuốn sách đầu tiên của Cuộc đảo hoán mọi Giá Trị [2]
Friedrich Nietzsche
Châm ngôn và tên nhọn
1.
Nhàn cư là khởi đầu của tất cả mọi tâm lý học. Sao? tâm lý học có thể là… một tật xấu?
2.
Ngay cả kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng ít khi có đủ can đảm khẳng định điều hắn thực sự biết.
3.
Để sống một mình người ta phải là một con vật hay một thần thánh - Aristote nói như vậy. Còn có trường hợp thứ ba nữa: người ta phải vừa là thú vật vừa là thần thánh - đó là triết gia.
4.
“Tất cả mọi chân lý đều đơn giản.”- Đó không phải là một lời dối trá phức tạp sao?
5.
Nói một lần dứt khoát, có nhiều điều tôi không muốn biết. - Minh triết vạch ra những giới hạn, ngay cả đối với hiểu biết.
6.
Chính vì trong bản chất của người ta có chất man rợ mà người ta có thể khôi phục lại được sự ác tà của mình, tôi muốn nói tâm linh tính…
7.
Sao? Con người chỉ là một sự nhầm lẫn của Thượng Đế hay Thượng Đế chỉ là một sự nhầm lẫn của con người?
8.
Trường chiến tranh của đời.- Cái gì không giết tôi khiến tôi mạnh mẽ hơn.
9.
Hãy tự giúp mình: rồi tất cả sẽ trợ giúp mình. Nguyên tắc bác ái của Kitô giáo.
10.
Chúng ta đừng hèn nhát trước những hành động của chúng ta! Chúng ta đừng bỏ rơi chúng ta trong cơn bối rối! - Sự hối hận của lương tâm là điều khiếm nhã.
11.
Con lừa có thể bi thảm không? - Bị đè bẹp dưới một gánh nặng mà người ta không thể mang cũng không thể quẳng đi?... Trường hợp của triết gia.
12.
Nếu người ta - thủ hữu câu hỏi tại sao của cuộc đời, người ta sẽ quen với bất cứ câu hỏi thế nào nào - Con người không khát vọng hạnh phúc; chỉ có người Ăng Lê làm vậy thôi.
13.
Người đàn ông đã tạo ra người đàn bà - nhưng bằng gì vậy? Bằng xương sườn Thượng Đế của hắn, - bằng lý tưởng của hắn…
14.
Sao? Bạn đang tìm kiếm gì? Bạn muốn nhân bạn lên một chục lần? Một trăm lần? Bạn tìm kiếm những kẻ theo mình? - Tìm hư không! [3]
15.
Những con người sống lại sau khi đã chết [4] - như tôi chẳng hạn - ít được hiểu hơn những người sống phù thời, nhưng họ được người ta lắng nghe chăm chú hơn. Nói rõ hơn: chúng ta không bao giờ được hiểu cả - và đó chính là quyền uy của chúng ta.
16.
Giữa đám quần thoa. - “Chân lý! Ồ! Chị không biết chân lý là gì rồi! Nó chẳng phải là một toan tính xâm phạm pudeur [5] của chúng ta sao?
17.
Đây là một nghệ sĩ, như những nghệ sĩ tôi yêu, đơn giản trong nhu cầu: hắn thực sự cần có hai điều: bánh mì và nghệ thuật của hắn, - panem et Circen…
18.
Kẻ nào không biết đặt ý chí của mình vào sự vật, muốn ít nhất đặt vào trong đó một ý nghĩa: điều đó khiến hắn tưởng trong đó đã hàm chứa một ý chí (nguyên tắc “tin tưởng”).
19.
Sao? Bạn đã chọn đức hạnh và tâm hồn cao thượng đồng thời lại ghen ghét nhìn lợi lộc của những kẻ thô lỗ phóng tâm trục vật? Nhưng với đức tính người ta khước từ “lợi lộc” mà… (để viết trên cửa nhà những kẻ bài Do Thái).
20.
Một người đàn bà hoàn toàn xúc phạm văn chương cũng như nàng phạm một tội lỗi nhỏ: để thử chơi, trong khi quay đầu lại ngó xem ai có để ý không, và để cho một người nào đó để ý…
21.
Phải đặt mình vào những hoàn cảnh trong đó người ta không được có những đức tính giả hình, nhưng trong những hoàn cảnh ấy, tựa như một người múa trên dây hoặc là người ta té hoặc đứng thẳng hoặc từ bỏ…
22.
“Những người độc ác không biết hát”. Vậy thì tại sao những người Nga lại biết hát?
23.
“Tinh thần Đức”: từ mười tám năm nay [6] là một contradictio in adjecto [7] .
24.
Vì muốn tìm nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con tôm [8] . Nhà sử học nhìn lại đằng sau: cuối cùng ông ta tin tưởng vào phía sau.
25.
Sự thoả mãn bảo vệ người ta khỏi ngay cả sự cảm lạnh. Một người đàn bà biết mặc áo quần đầy đủ có cảm lạnh không nhỉ? - Tôi giả thiết trường hợp nàng mặc quần áo mong manh.
26.
Tôi hồ nghi tất cả những người muốn thiết lập hệ thống và tránh xa họ. Ý muốn lập hệ thống là sự thiếu ngay thẳng thanh liêm.
27.
Người ta nói rằng người đàn bà sâu sắc - tại sao? Bởi vì người ta không bao giờ tới được đáy sâu của họ. Người đàn bà không hời hợt nữa.
28.
Khi người đàn bà có những đức tính đàn ông, người ta lảng tránh nàng, và nếu nàng không có những đức tính ấy, nàng sẽ chạy trốn chính nàng.
29.
Trước kia lương tâm phải cắn nhiều xiết bao! Nó có bộ răng tốt biết mấy! Và ngày nay? Có chuyện gì trục trặc xảy ra? - Vấn đề của nha sĩ.
30.
Ít khi người ta phạm nguyên chỉ một lỗi lầm khinh xuất. Với lỗi lầm khinh xuất đầu tiên, người ta luôn làm quá. Chính vì lý do đó, người ta thường phạm lỗi thứ hai - và bây giờ thì lại quá ít.
31.
Khi bị giẫm chân lên, con con sâu sẽ cuộn mình lại. Đó là tính thận trọng khôn ngoan. Bằng cách đó nó giảm dần tai hoạ bị giẫm lên trên lần nữa. Nói theo ngôn ngữ đạo đức: lòng khiêm tốn.
32.
Sự ghét dối trá và che đậy có thể khởi lên từ quan niệm thái quá về danh dự; sự khinh ghét tương tự có thể khởi lên từ lòng hèn nhát, vì sự dối trá bị cấm bởi luật thiêng liêng. Quá hèn nhát để nói dối…
33.
Cần ít biết chừng nào để được hạnh phúc! Tiếng sáo mục tử. - Không âm nhạc cuộc đời sẽ là một lỗi lầm. Người Đức còn tưởng tượng ngay cả Thượng Đế như một người đang ca hát nữa.
34.
On ne peut penser et écrire qu’assis [9] (G. Flaubert) - Thế là ta tóm được ngươi rồi, kẻ theo hư vô chủ nghĩa! Ngồi đúng là phạm tội với Thánh Linh. Chỉ có những tư tưởng đến với ta khi đang bước đi mới có giá trị mà thôi.
35.
Có những trường hợp chúng ta giống như những con ngựa, chúng ta, những tâm lý gia, và chúng ta trở nên bồn chồn sợ hãi: chúng ta nhìn thấy bóng chúng ta chập chờn trước mặt mình. Tâm lý gia phải quay mặt đi đừng nhìn mình để có thể nhìn thấy tất cả.
36.
Chúng ta có gây tổn thất gì cho đức hạnh không, chúng ta những kẻ vô luân? - Cũng ít như những kẻ vô chính phủ làm hại những ông hoàng vậy thôi. Chỉ khi nào đã bị bắn rồi họ mới có thể ngồi lại một cách vững vàng trên ngôi. Luân lý: người ta phải bắn bỏ luân lý.
37.
Bạn chạy trước những người khác? - Bạn làm như vậy như một mục tử? Hay như một kẻ ngoại hạng? Trường hợp thứ ba có thể như một kẻ đào ngũ… Câu hỏi thứ nhất của lương tâm.
38.
Bạn chân thật? Hay chỉ là một kẻ đóng trò? Một đại diện? Hay chi rlà một kẻ được đại diện? Cuối cùng có lẽ bạn chỉ bắt chước kẻ đóng trò… Câu hỏi thứ hai của lương tâm.
39.
Kẻ bất mãn nói. - Tôi tìm kiếm những vĩ nhân nhưng bao giờ cũng chỉ tìm thấy con khỉ bắt chước lí tưởng của họ.
40.
Bạn là kẻ ngắm nhìn? Hay một kẻ bắt tay vào công việc? - Hay một kẻ ngó lơ quay đi chỗ khác… Câu hỏi thứ ba của lương tâm.
41.
Bạn muốn đi chung cùng bạn hữu? Hay dẫn đầu? Hoặc đi riêng lẻ một mình?... Người ta phải biết mình muốn gì và phải biết rằng mình muốn. - Câu hỏi thứ tư của lương tâm.
42.
Đối với tôi chúng chỉ là những bậc thang và tôi đã bước lên chúng - do đó tôi phải vượt qua chúng. Nhưng chúng lại tưởng rằng tôi muốn ngồi lên chúng.
43.
Có quan hệ gì việc tôi giữ lẽ phải! Tôi có quá nhiều lẽ phải. - Và kẻ nào cười nhiều hôm nay cũng sẽ là kẻ cười cuối cùng.
44.
Định thức hạnh phúc của tôi: một tiếng ừ, một tiếng không, một con đường thẳng, một mục tiêu…
Vấn đề Socrate
1.
Bàn về cuộc đời, những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại đều đưa ra một phán đoán tương tự như nhau: cuộc đời vô giá trị… Bất cứ ở đâu và bao giờ cũng vậy người ta đều nghe thấy câu nói đó thốt ra từ miệng họ. - Một câu nói đầy nghi ngờ, đầy phiền não, đầy chán chường cuộc đời, đầy khinh miệt cuộc đời. Ngay cả Socrate cũng nói lúc lâm chung: “Sống - là đau bệnh một thời gian lâu dài: Ta nợ đấng cứu nhân độ thế Esculape một con gà [10] ” Ngay cả Socrate cũng chán mứa cuộc đời. - Điều đó chứng tỏ gì? Điều đó muốn trỏ cái gì?- Ngày xưa có lẽ người ta sẽ nói (- Ồ, người ta đã nói rồi và nói khá lớn, nhất là những kẻ bi quan của chúng ta): “Chắc chắn phải có một cái gì chân thực ở đây! Consensus sapientium [11] là bằng chứng của chân lý.” – Ngày hôm nay chúng ta sẽ còn nói như thế không? Chúng ta còn được phép làm thế không? “Chắc chắn phải có một cái gì bệnh hoạn ở đây” - đó là câu trả lời của chúng ta. Những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại, ta phải nhìn họ thật gần! Có thể tất cả những người đó chân không còn đứng vững? Chậm trễ? Run rẩy? Décadents [12] biết đâu? Có lẽ sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí?
2.
Quan niệm bất kính cho rằng những bậc hiền nhân vĩ đại là những mẫu sa đoạ [13] khởi lên trong tôi chính trong trường hợp trong đó thành kiến bác học và thành kiến vô học đối chọi nhau kịch liệt: tôi nhận ra Socrate và Platon như những triệu chứng suy đồi, như những công vụ của sự băng hoại của Hy Lạp, như những kẻ nguỵ Hy Lạp, như những kẻ bài Hy Lạp (Sự khai sinh của bi kịch, 1872). Sự consensus sapientium - như càng ngày tôi càng thấy rõ - chẳng chứng tỏ một chút nào rằng họ có lý về điều mà họ đồng ý với nhau: nó chỉ chứng tỏ rằng chính họ, những kẻ khôn ngoan nhất, một cách nào đó về phương diện sinh lý, họ tương tự như nhau để có cùng một thái độ như nhau đối với cuộc đời - để bắt buộc phải có thái độ đó. Sau hết, những phán đoán và những thẩm định giá trị về cuộc đời, dù tán dương hay chống lại, đều không thể đúng được: giá trị đích thực của chúng nằm trong sự kiện chúng là những triệu chứng; chúng chỉ có thể được coi như là triệu chứng mà thôi - trong tự thể những phán đoán này là những điều xuẩn ngốc. Chúng ta phải cố gắng bằng mọi cách để lãnh hội sự tế nhị siêu phàm này là giá trị của cuộc đời không thể thẩm định được [14] . Không thể thẩm định được bởi một người còn sống, bởi hắn là thành phần, là đối tượng của chính cuộc tranh luận nữa, chứ không phải là quan toà; cũng không thể bởi một người đã chết vì một lý do khác. - Về phần một triết gia, nhìn một vấn đề trong giá trị của cuộc đời, là một vấn nạn chống lại chính hắn, một dấu hỏi về sự khôn ngoan của hắn, một sự thiếu khôn ngoan [15] nữa - Sao? Tất cả những người khôn ngoan vĩ đại này - không những họ là nhữngdécadents mà họ còn không khôn ngoan nữa sao? - Nhưng tôi xin trở lại vấn đề Socrate.
3.
Xét về nguồn gốc, Socrate thuộc về đẳng cấp thấp hèn nhất: Socrate thuộc dòng hạ lưu. Người ta biết, người ta có thể thấy ông ta xấu xí biết chừng nào nữa. Nhưng sự xấu xí tự nó đã là một vấn nạn, hầu như là một bác luận nơi người Hy Lạp. Socrate có đúng là người Hy Lạp không? Sự xấu xí thường là dấu hiệu của một sự phát triển bị ngăn chặn, một sự phát triển bị cản trở bởi sự pha giống. Trong trường hợp khác, nó hiện ra như một sự phát triển suy đồi. Những nhà nhân chủng học chuyên khảo về tội ác học tuyên bố rằng kẻ tội phạm đặc trưng xấu xí: monstrum in fronte, monstrum in animo [16] . Nhưng kẻ tội phạm là một kẻ décadent [17] . Socrate có phải là một kẻ tội phạm đặc trưng không? - Dù sao điều đó cũng không trái ngược với ý kiến của nhà chuyên coi tướng mạo, ý kiến khiến bằng hữu của Socrate tức giận. Trong khi đi qua thành Nhã Điển, một người ngoại quốc biết coi tướng mặt đã nói thẳng vào mặt Socrate rằng ông ta chỉ là một quái vật, ông ta chứa dấu trong mình tất cả những tật xấu và những khát vọng đồi bại. Và Socrate chỉ đáp: “Thưa ông, ông biết tôi rõ lắm”.
4.
Không những sự hoang đàng và hỗn loạn của bản năng chỉ sự décadence nơi Socrate: mà sự bội dư của những khả năng luận lý, và sự độc ác méo mó còn là những đặc tính nổi bật nơi ông ta nữa. Chúng ta đừng quên rằng những ảo tưởng thính giác, dưới danh từ “con quỷ của Socrate”, được diễn giải theo một ý nghĩa tôn giáo. Tất cả mọi sự nơi ông ta đều quá đáng, hài hước, hoạt kê, đồng thời đều dấu diếm, có ẩn ý, tà khuất. Tôi cố gắng tìm hiểu xem đặc tính nào đã có thể khai sinh ra cái phương trình Socrate này: lí trí = đức hạnh = hạnh phúc: cái phương trình quái gở nhất, và đặc biệt, nghịch lại tất cả mọi bản năng Hy Lạp xưa.
5.
Với Socrate, thị hiếu Hy Lạp biến đổi theo chiều thuận lợi cho biện chứng pháp: thực ra điều gì đã xảy ra? Trước hết, thị hiếu cao nhã đã biến mất; với biện chứng pháp, đám hạ lưu len chân tới thượng đỉnh. Trước Socrate, những lề lối biện chứng bị khai trừ trong xã hội thượng lưu: chúng bị coi như những kiểu cách xấu xa, chúng có tính cách thoả hiệp bình dân. Thanh niên được cảnh giác lánh xa. Người ta còn nghi kị cả những kẻ trình bầy lý lẽ của mình. Những sự việc lương thiện cũng như những con người lương thiện không mang phơi trần những lý lẽ của mình cách ấy. Phơi bầy cái tốt lành của mình là điều vô phép. Cái cần phải chứng rỏ không có giá trị bao nhiêu. Bất cứ nơi nào mà uy quyền hãy còn thuộc tập tục tốt, bất cứ nơi nào mà người ta không “luận lý” mà chỉ ra lệnh, thì nhà biện chứng pháp là một thứ hề: hắn bị chế nhạo, hắn không được coi trọng. Socrate là tên hề thành công trong việc bắt người khác coi mình là trọng: vậy thì chuyện gì đã thực sự xảy ra?
6.
Người ta chỉ chọn biện chứng pháp khi nào không còn cách nào khác. Người ta biết rằng biện chứng pháp gây ra nghi ngờ, rằng nó không hùng hồn lắm. Không có gì dễ xoá bỏ hơn hiệu quả biện chứng: sự kiện này được chứng minh trong những cuộc hội thảo. Nó chỉ có thể là sự tự vệ cuối cùng của những người không có khí giới. Người ta phải dành giật quyền hành của mình: nếu không, người ta không dùng đến nó. Đó là lý do tại sao, những người Do Thái đều là những nhà biện chứng; Lão Cáo- già [18] là nhà biện chứng: sao vậy? Socrate cũng là một nhà biện chứng sao?
7.
Sự hài hước của Socrate là một biểu lộ của phản kháng? Của lòng hờn oán của đám hạ lưu? Ông ta có thích thú nếm mùi tàn bạo của chính mình trong mũi dao nhọn của tam đoạn luận, như một kẻ bị áp chế không? Ông có trả thù những người quí phái ông dụ hoặc không? - Là một nhà biện chứng, người ta nắm trong tay một khí cụ tàn nhẫn; với sự trợ giúp của nó người ta có thể làm một bạo chúa; người ta thoả hiệp trong khi chiến thắng. Nhà biện chứng để nó lại cho địch thủ để chứng tỏ rằng hắn không phải là một tên ngốc: hắn làm người ta nổi điên và đồng thời trở nên bơ vơ không nơi nương tựa. Nhà biện chứng bất lực hoá trí tuệ đối thủ. Sao? Biện chứng pháp chỉ là một hình thức trả thù trong trường hợp Socrate?
8.
Tôi đã cho thấy bằng cách nào Socrate có thể làm người ta xa lánh: bây giờ điều quan trọng nhất là giải thích sự kiện ông ta đã mê hoặc cách nào. Ông ta đã khám phá ra một nghệ thuật chiến đấu mới, ông ta là kiếm sư đầu tiên của những giới quí tộc ở Nhã Điển, đó là lý do thứ nhất. Ông ta mê hoặc bởi ông ta khêu gợi những bản năng hiếu chiến của người Hy Lạp, - ông ta đã đưa vào trường đô vật giữa người lớn và thanh niên một sự thay đổi. Socrate còn là một người đại dâm đãng.
9.
Nhưng Socrate còn tiên đoán nhiều cái khác nữa. Ông ta nhìn thấu suốt những nhà quí phái Nhã Điển; ông ta thấy rằng trường hợp của ông ta, trường hợp riêng của ông ta, chẳng phải là trường hợp ngoại lệ phi thường, ngay cả trong thời đại ông ta. Sự suy đồi tương tự thầm lặng sửa soạn ở khắp nơi: thành Nhã Điển cổ kính đang hấp hối. Và Socrate hiểu rằng toàn thể thế giới cần ông ta - cần phương thuốc, cách chữa trị, phương thức tự bảo tồn đặc biệt của ông ta. Ở khắp nơi, những bản năng đều ở trong tình trạng hỗn loạn; khắp nơi người ta chỉ cách xa sự thái quá có một bước: monstrum in animo là hiểm hoạ chung. “Bản năng muốn đóng vai bạo chúa chuyên chế; cần phải tạo ra một phản bạo chúa mạnh hơn”… Khi nhà chuyên coi tướng mạo đã cho Socrate thấy con người thực của ông ta, một miệng núi lửa đầy rẫy mọi khát vọng xấu xa, nhà đại hài hước này đã thốt ra một câu cho chúng ta một cái chìa khoá mở vào bản chất của ông ta. “Điều đó đúng, nhưng tôi đã chế ngự được tất cả.” Bằng cách nào Socrate đã tự chủ được chính mình? Trường hợp của ông ta, rốt cuộc cũng chỉ là trường hợp thái quá, một thí dụ rõ rệt nhất của một trạng thái tuyệt vọng đang bắt đầu trở thành phổ quát: không ai còn có thể tự làm chủ mình nữa, những bản năng đang trở nên chống đối lẫn nhau. Ông ta cám dỗ vì là thí dụ thái quá của trạng thái này - sự xấu xí khủng khiếp của ông ta khiến mọi mắt nhìn đều tỏ rõ: ông ta còn cám dỗ hơn nữa, điều đó tự nhiên, như một câu trả lời, như một phương sách, như một cách chữa trị hiển nhiên của trường hợp này.
10.
Khi người ta thấy cần phải biến lí trí thành một bạo chúa chuyên chế, như Socrate đã làm, thì hiểm hoạ một cái gì khác cũng muốn thủ vai bạo chúa chuyên chế không phải là nhỏ. Chính lúc đó lí trí được khám phá như một đấng cứu thế. Cả Socrate lẫn những “kẻ bệnh hoạn” không được tự do chọn có lí hay không có lí: điều đó tính cách de rigueur, đó là phương thuốc cuối cùng của họ. Sự cuồng tín mà toàn thể tư tưởng Hy Lạp nhào vào lí trí tố cáo một tình trạng khẩn trương: như người ta đang trong cơn hiểm hoạ, người ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: hoặc là chìm đắm tận đáy hoặc - lí trí một cách phi lí… Chủ trương đạo đức của những triết gia Hy Lạp từ Platon bị điều kiện hoá của một cách bệnh hoạn; sự thẩm định về biện chứng pháp của họ cũng vậy. Lí trí = đức hạnh = hạnh phúc chỉ có nghĩa: người ta phải bắt chước Socrate và đương đầu với những đam mê đen tối bằng cách thường trực tạo ra ánh sáng ban ngày - ánh sáng lí trí. Phải thận trọng, sáng sủa, minh bạch bằng mọi giá: tất cả mọi nhượng bộ cho bản năng, vô thức đều đưa xuống dốc…
11.
Tôi đã cho thấy cách mà Socrate cám dỗ: ông ta có vẻ là một thầy thuốc, một đấng cứu thế. Có cần phải vạch ra sự sai lầm trong niềm tin vào “lí trí với bất cứ giá nào” của ông ta nữa không? - Đó là một sự tự lừa dối về phía những triết gia và những nhà luân lí khi họ tin tưởng rằng họ thoát ra khỏi sự décadence bằng cách gây chiến với nó. Điều đó ở trên khả năng của họ: cái họ chọn lựa như một phương thuốc, như một phương tiện cứu chuộc, lại chỉ là một sự biểu lộ khác của sự décadence - họ chỉ thay đổi cách biểu lộ của nó, chứ họ không huỷ bỏ được chính nó. Socrate là một sự ngộ nhận; toàn thể luân lí nhằm cải thiện, kể cả luân lí Kitô giáo là một sự ngộ nhận… Ánh sáng chói lọi nhất, lí trí với bất cứ giá nào, đời sống minh bạch, lạnh lùng, thận trọng, ý thức, không phải bản năng, chống lại bản năng, chỉ là một sự bệnh hoạn, một thứ bệnh hoạn mới - chứ không phải là một sự trở về “đức hạnh”, “sức khoẻ”, hạnh phúc… Bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng - đó là định thức của sự décadence: chừng nào mà cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng đồng nhất.
12.
Tự ông ta có hiểu điều đó không, ông ta, người thận trọng nhất trong những kẻ tự lừa dối mình? Ông ta có tự thú nhận với mình vào giây phút cuối cùng, trong sựkhôn ngoan của lòng can đảm trước cái chết không?... Socrate muốn chết: - Không phải Nhã Điển mà chính là ông ta tự trao cho mình chén thuốc độc… “Socrate không phải là thầy thuốc”, ông ta thầm nhủ: “Chỉ có cái chết mới là thầy thuốc ở đây… Chỉ có Socrate mới đau một cơn đau dài…”
[1]Tinh thần lớn mạnh, sức khoẻ gia tăng bởi vết thương - Ghi chú của Dịch giả (G.c.D.)
[2]Tức Kẻ chống Chúa - (G.c.D.)
[3]Suche Nullen! “Nullen” có nghĩa là không ai cả, số không và đồng thời cũng có nghĩa là Hư không. - (G.c.D.)
[4]Posthume menschen. Nietzsche thường tự coi mình như một con người sống phi thời gian (unzeitghe mäss), trên thời gian, độc lập với thời đại, sống như một cái bóng trong lúc sinh thời và chỉ hồi sinh, sống động sau khi đã chết đi. Con người thuộc về tương lai, sống cho và sống với thế hệ mai hậu. CT. “Những suy tưởng phi thời” (Unzeitgemässe Betrachtungen). - G.c.D.
[5]Pháp văn trong nguyên bản: “Ist sie nicht ein Attentat auf alle unsre pudeurs?”: “Nó không phải là sự xâm phạm tiết hạnh của chúng ta sao?” - G.c.D.
[6]Kể từ ngày thành lập Reich (Đế Quốc)
[7]Trái ngược về thời gian
[8]Có lẽ phải viết: “Vì muốn tìm về nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con cua”. Nhưng Nietzsche viết: “Damit, dass man nach den Anfăngen sucht, wird man Krebs” - G.c.D.
[9]Pháp văn trong nguyên bản: “Người ta chỉ có thể suy tưởng và viết khi ngồi.” - G.c.D.
[10]Esculape hay Asklêpios viết theo tiếng Hy Lạp, là Thần Y thuật hay tổ sư nghề thuốc.
[11]La văn: sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan. “Der consensus sapientium beweist die wahrrheit”: “Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.”
[12]Pháp văn trong nguyên bản: suy đồi, một trong những khai ngữ của Nietzsche, chỉ những kẻ bi quan, hướng vọng quá khứ, Thiên Đàng, Thượng Đế và tuyệt vọng - G.c.D.
[13]Niedergangs – Typen - G.c.D.
[14]der Wert des Lebens nicht abgeschätzt werden kann.
[15]Nietzsche công kích Engène Dühring, tác giả Giá trị của cuộc đời - G.c.D.
[16]La văn trong nguyên tác: một quái vật trên nét mặt, một quái vật trong linh hồn.
[17]Nietzsche phân biệt hai thứ tội phạm, một thứ tội phạm vì dũng mãnh, một thứ tội phạm vì yếu hèn. Do đó có một thứ tội phạm phẩm cách cao nhã, một thứ tội phạm đáng kinh tởm. Ở đây nói về loại thứ hai, trong khi ở đoạn 45, chương “Những cuộc viễn hành của con người phi thời” đề cập tới loại thứ nhất. - G.c.D.
[18]Reineke Fuchs - G.c.D.
1.
Năm 1888 trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche
Mặt trời lên cao đỉnh rồi bùng vỡ trong Van Gogh trong năm 1888. Đó cũng chính là thời kì sáng tạo dữ dội nhất của ông. Bóng tối lưỡng lự đã bị lùa ra khỏi tranh. Bàn tay trở nên chính xác một cách tàn bạo. Nét cọ tung hoành như sấm sét. Màu sắc loé sáng trong khi tâm trí đã bắt đầu hôn ám. Nhưng trong buổi hoàng hôn của tâm thức đó, viễn tượng đã kết hợp một cách kì diệu với thực tại. Ngày 21 tháng 4 năm sau, Van Gogh viết cho em: “Điều an ủi anh đôi chút là anh bắt đầu coi sự điên cuồng như một chứng bệnh giống như những bệnh tật khác, trong khi đó ngay cả trong những cơn khủng hoảng, anh thấy dường như tất cả những gì anh tưởng tượng trước kia đều là thực tại cả.” Và ông lăn xả vào công việc, vẽ từ sáng tới tối. Người ta kể lại rằng những người bạn đồng phòng với ông khi đi ra thấy ông đang vẽ một tấm tranh, vài giờ sau trở vào đã thấy ông vẽ một tấm tranh khác. Ông làm việc như kẻ bị quỉ ám, “j’ai une fureur sourde de travail plus que jamais” (9/1889). Ông không thể ra khỏi hội hoạ, nghĩa là ra khỏi thực tại, làm mồi cho điên cuồng và phiền não. “Trong tất cả mọi trường hợp, tìm cách trung thành với sự thực có lẽ là một phương thuốc để chống lại bệnh tật đang làm anh lo âu” (thư cho Théo, 12 tháng 2 năm 1890). Có lẽ Vincent van Gogh linh cảm thấy rằng phần ánh sáng dành cho ông sắp hết và ông phải tận dụng nó, nhìn lần cuối cùng trong ánh sáng viễn tượng những thực tại đã bị thói quen giả dối chôn vùi. Trường hợp Nietzsche cũng tương tự như vậy. Năm 1888 là cực điểm sáng suốt và sáng tạo của Nietzsche, đồng thời cũng là cực độ của đau khổ và cô đơn của ông. Ngày 12 tháng 2 năm 1888, Nietzsche viết cho bá tước Seydlitz: “Bây giờ tôi cô đơn, cô đơn một cách phi lí; trong cuộc chiến tàn khốc và âm thầm mà tôi theo đuổi (dưới uy thế Đảo Hoán mọi Giá Trị) chống lại tất cả những gì đã được mọi người tôn sùng và quí trọng từ xưa tới nay, chính tôi đã trở thành một cái u hồn cốc mà không hay…” Trong tình cảnh đó ông chỉ cầu xin một điều: “Sự thanh bình, quên lãng, sự khoan dung của mặt trời và của mùa thu cho một cái gì đang muốn chín tới, cho sự chứng thực và biện minh của toàn thể con người tôi…” (thư cho Paul Dessen, 3 tháng Giêng năm 1888). Kết quả là năm tác phẩm cuối cùng, chín mùi nhất, mãnh liệt nhất của Nietzsche hoàn thành trong năm này: Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Kẻ chống Chúa, Nietzsche chống Wagner, Ecce Homo và tụng ca Dionysos.
Quả thực năm 1888 là cực điểm của cuộc đời và tư tưởng Nietzsche. Trước hết nó là cao độ của một thập niên đầy sáng tạo khởi đầu từ 1878 với Phàm phu, quá phàm phu, tác phẩm đầu tiên mà trong đó chan hoà ánh sáng thiên tài, kế đó Ý kiến tương hợp và châm ngôn (1879), Lữ khách và bóng hình mình (1880), Bình minh(1881), Tri thức hân hoan (1882 - bổ túc thêm năm 1887), Zarathustra đã nói như thế (1883–1885), Phi thiện ác (1886) và Phổ hệ luân lí (1887). Song song những tác phẩm trên, trong nhiều thập niên này Nietzsche còn đưa ra nhiều tư tưởng dũng mãnh quanh chủ đề Ý chí hùng cường. Sang năm 1888, Nietzsche bỏ Ý chí hùng cường và thay thế bằng Cuộc đảo hoán mọi giá trị, trong đó Kẻ chống Chúa, là tác phẩm mở đầu.
Năm 1888 còn có ý nghĩa cực điểm trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche ở chỗ toàn bộ tác phẩm viết trong năm này là những cuộc duyệt xét lại và toát lược lại toàn thể những chủ đề triết lí của ông và của hai ngàn năm triết học Tây phương trong ánh sáng chói loà cuối cùng của tâm thức, ở một cao độ buốt giá, bằng một bút pháp sắc bén, cô đọng. Sau đó là bóng tối và yên lặng hoàn toàn. Đầu tháng Giêng 1889, tinh anh ông đã vỗ cánh bay cao, và ông không viết thêm một dòng nào nữa mặc dầu thể phách còn ngồi lại mười năm nữa, tới tháng 8 năm 1990.
2.
Buổi hoàng hôn của những thần tượng
Tác phẩm Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào người ta triết lí với cây búa? (Götzen-Dämmerung, oder: Wie man mit dem Hammer philosophiert?)được viết trong khoảng thời gian từ cuối tháng Sáu tới đầu tháng Chín năm 1888 và được đem ấn hành vào tháng Mười cùng năm. Mới đầu tác phẩm mang tựa đề Sự nhàn rỗi của một tâm lí gia hay Những giờ nhàn cư của một tâm lí gia (Müssiggang eines Psychologen). Nhưng sau đó, theo lời yêu cầu của Peter Gast, một cao đồ trung thành của Nietzsche, đòi ông phải tìm một tựa đề “huy hoàng” hơn cho tác phẩm, Nietzsche nhượng bộ, phỏng theo nhan đề vở Hoàng hôn của những thần thánh (Götterdämmerung) của Wagner, đặt lại là Hoàng hôn của những thần tượng (Götzen-Dämmerung).
Thần thoại Bắc Âu kể rằng tất cả mọi thần thánh đều có ngày tàn mạt, ngày họ tan biến vào hư vô. Đó là buổi hoàng hôn của thần thánh. Richard Wagner đã mượn thần thoại này để dựng vở kịch thứ tư trong bộ Tứ ca bộ kịch (Tétralogie) của ông, Nietzsche thay đổi tựa đề và cả ý nghĩa. “Thần tượng” là biểu tượng Nietzsche dùng để chỉ chân lí. “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự sụp đổ của mọi chân lí.
Không một thực tại, một ý tưởng, một lí tưởng, một chân lí, một “thần tượng” nào tác phẩm này không chạm tới. Từ những chân lí vĩnh cửu đến những chân lí, giá trị mới mẻ. “Một cơn gió lớn thổi qua rặng cây… và trái chín rụng rơi tơi tả: những chân lí”. (Ecce Homo). Nhưng những cái người ta có thể lượm trong tay chẳng có gì ngọt ngào. Vì đó chỉ là những trái thối hư, thực phẩm vô vị đã hết dưỡng chất của hai ngàn năm qua cần phải liệng bỏ. Tất cả mọi chân lí đều nhạt phai và phải xoá đi, mọi thần tượng đều hết thiêng liêng và phải tiêu diệt. Duy chỉ có cuộc đời là vĩnh cửu. Tất cả mọi hiểu biết đều sai lầm, mọi luân lí đều độc hại. Duy chỉ có bản năng là tốt lành.
Đây là cuộc Tuyên chiến vĩ đại. Đây là cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lí trí, luân lí, tâm lí học, lòng ái quốc, vị tha, tình nhân loại… Đây là cuộc lột mặt nạ không thương tiếc những nhân vật, “những thần tượng” tượng trưng cho những chân lí, những giá trị cũ: Socrate, Platon, thiện ác, đẹp xấu… và những “thần tượng” tượng trưng cho những chân lí và giá trị mới: Renan, Rousseau, Sainte-Beuve, G. Eliot, George Sand, Schopenhauer, Comte, Kant, Schiller, Zola, Victor Hugo, Listz, Carlylle, nghệ thuật vị nghệ thuật, dân chủ, tiến bộ…
Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác phẩm này những tư tưởng hữu thể học quan trọng nhất của Nietzsche. Đúng hơn, chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là: hữu thể học truyền thống coi là “hữu thể chân thực” (Wahres-Sein) cái thực ra chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả đặc tính của phi thể (Nicht-Sein) và vô thể (Nichts) và chối bỏ, coi như “phi hữu” và phi thực cái thực ra là hữu thể đích thực và hữu thể duy nhất. Cái từ xưa tới nay, người ta coi là hiện thể đích thực, thực ra chỉ là mộng huyễn bào ảnh, trong khi cái từ xưa tới nay người ta coi là mộng huyễn bào ảnh lại chính là hiện thể chân thực. Cái từ xưa tới nay được coi là “hữu thể” (Sein) đối nghịch với biến dịch không có, trong khi chỉ có cái biến dịch hiện hữu mà thôi. Không có “hữu thể” siêu thời gian và không gian, cũng như không có tâm linh thế giới, Linh tượng giới (le monde des idées) hay thế giới của những ý tưởng vĩnh cửu mà chỉ có thế giới khả giác (monde sensible), hiện hữu trong không gian thời gian. Không có thế giới tự nội (monde en-soi), mà chỉ có thế giới hiển lộ (monde des apparences). Không có thế giới khác mà chỉ có thế giới này, thế giới chân thực, duy nhất, linh động mà nguyên động lực là ý chí hùng dũng. Không có thế giới nào khác. Tất cả những ý nghĩ, khát vọng về một thế giới khác chỉ là cách trả thù cuộc đời “bằng sự lạm dụng ảo tưởng” về một cuộc đời “tốt đẹp hơn”. Sự chia thế giới ra làm một thế giới “tự nội” và một thế giới “bề ngoài” là dấu hiệu của sự suy đồi- một triệu chứng của sa đoạ. “Sự kiện người nghệ sĩ đặt bề ngoài lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “bề ngoài” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa, nhưng mà là dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai… Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm,- hắn gật đầu nói “ừ” trước tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp của cuộc đời, hắn là kẻ theo Dionysos”.
Chương quan trọng nhất và cũng là trọng tâm của tác phẩm là chương “Lí trí trong triết học”. Trước đó là “Vấn đề Socrate”, sau đó là “Luân lí như một cái gì phản tự nhiên”. Trước kia Nietzsche lên án khoa học, triết học vì chúng bị đầu độc bởi luân lí. Bây giờ Nietzsche lên án luân lí, triết học, khoa học bởi chúng bị đầu độc bởi lí trí, hay đúng hơn, bởi những sự lầm lẫn lớn lao của lí luận. Những triết gia lầm lẫn lấy hậu quả làm nguyên nhân, nguyên nhân làm hậu quả. Nietzsche bài bác gắt gao phương trình quái gở và bệnh hoạn này của Socrate: lí trí = đức hạnh = hạnh phúc. Socrate, Platon là những triệu chứng suy đồi. Thế nào là suy đồi (décadence)? “Bị bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng đó là định thức của suy đồi, khi cuộc đời hướng thượng, hạnh phúc và bản năng là một.” Tất cả mọi sự tốt lành đều thuộc bản năng. Alles Gute ist Instinkt. Nietzsche coi như có bổn phận chống lại quan niệm cho Thượng Đế = thế giới khác của “hữu thể chân thực”. Vì quan niệm như thế, người ta bắt buộc phải coi rẻ những thực tại trần gian mà giác quan chứng nghiệm, khi coi chúng là hiển thể (Schein) không thực thể, và đi đến chỗ khước từ cuộc sống nhục cảm, lành mạnh, coi như “tội lỗi”. Theo Nietzsche, với Thượng Đế, người ta đặt thành tuyệt đối thể một hữu thể tưởng tượng, phi thời gian bên trên những thực tại trần gian, những cái duy nhất có thực thể trong dòng biến dịch. Một Thượng Đế, nếu được quan niệm như thế, sẽ làm nền tảng cho một thứ luân lí vô cùng nguy hại cho con người và cuộc đời. Đó là một hữu thể học luân lí hoá hay một luân lí hữu thể học hoá. Cần phải giải phóng hiện thể khỏi thứ hữu thể học hay luân lí này. Đó là một nhiệm vụ nặng nề mà Nietzsche gọi là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị”. Đó là công việc của người nghệ sĩ bi tráng, kẻ nói “ừ” trước tất cả mọi hồ nghi và khủng khiếp. Người nghệ sĩ bi tráng chọc thủng hiển thể để đạt tới thực thể một cách can đảm. Hắn dám chấp nhận cái chết của Thượng Đế và dám đập “bằng cây búa” tất cả những chân lí cắm rễ sâu nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống và thừa can đảm để gây nên những “âm thanh trống rỗng” của buổi chiều tà. Đi vào “Hoàng hôn của những thần tượng” và đương đầu với “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” là những sứ mệnh lịch sử của người nghệ sĩ bi tráng cũng như của tất cả những tinh thần tự do không chấp nhận làm rêu mốc bám trên những bậc thềm, những bờ tường nứt nẻ của những miếu đường hoang vắng nữa. Nếu “Hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự lạm phát của mọi chân lí, mọi giá trị thiết định lấy “thế giới chân thực” bên ngoài trần gian, bên kia đời sống làm bản vị, coi những kẻ bạc nhược sa đoạ là những kẻ làm giấy bạc, coi đền thờ là những ngân hàng và Thượng Đế là kẻ chế tài thì “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” chính là sự phá giá của tất cả những chân lí, những giá trị đó. Cả hai đều là những giai đoạn tất yếu và cần phải vượt qua của lịch sử. Chân lí, trần gian, cuộc đời sẽ và chỉ thuộc về những kẻ chân thực, dám đốt đi những bản di chúc hứa hẹn huy hoàng nhưng giả dối và giả tạo như tấm ngân phiếu không tiền bảo chứng, những kẻ sau khi buông rời cây búa phá huỷ còn đủ sức mạnh cầm tay cầy khai phá cánh đồng khả thể, khơi mở dòng đời, tạo dựng đời sống trong dòng Hồn nhiên của Biến dịch.
3.
Song luận
Sự thức tỉnh của nhân loại bắt đầu với song luận này: “Hoặc chúng ta phá huỷ sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta phá huỷ chính chúng ta” (Der Will zur Macht, III) Chúng ta đã phải trả giá khá đắt cho những “chân lí” thiêng liêng, những sai lầm in physiologicis (Ibid, II) Nietzsche tự coi như bổn phận việc “sửa soạn cho nhân loại một giây phút tuyệt vời trở về chính mình, một buổi giữa ngọ rực rỡ để quay về quá khứ và đưa mắt nhìn về tương lai, để rũ khỏi ách đô hộ của tình cờ và của những giáo sĩ và đặt câu hỏi tại sao và thế nào trong toàn bộ của nó lần thứ nhất, bổn phận này thiết yếu bắt nguồn từ lòng xác tín rằng nhân loại tự mình đã không đi theo đúng chính đạo, đã không được điều động bởi một thần tính mà trái lại đã để bị lôi cuốn và chế ngự bởi một bản năng tiêu cực, hư hỏng, bởi bản năng suy đồi mà nhân loại đặt lên hàng những giá trị tối thiêng liêng” (Ecce Homo, III, 2), vì thế “sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này từ xưa tới này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí”, hay cũng có thể nói như một con cú vọ chuyên soi mói những khía cạnh đen tối cuộc đời và thốt lên những tiếng bi ai. Đó là sự khôn ngoan của tinh thần nặng nề, tìm sự giải thoát bằng cách tiêu diệt ý chí sống. Nietzsche gây chiến chống lại chủ trương tiêu cực mệt mỏi đó. Kết quả của nỗ lực bền bỉ, can đảm, cứng cỏi, âm thầm này là sự hân hoan hay “tri thức hân hoan” theo ngôn ngữ Nietzsche. “Kẻ nào trèo lên núi cao, kẻ ấy tự cười mọi bi kịch giả tạo hay có thực.” Trên bàn thờ những giá trị mới, tiếng cười chiến thắng đã thay thế tiếng thở dài đầu hàng. “Tôi đã phong thánh tiếng cười, hỡi những con người siêu đẳng, hãy học cười!”. Bằng tiếng cười hồn nhiên ròn rã, chúng ta quét sạch mọi thần tượng trang trọng đăm chiêu và đón chào một thế giới tinh khôi rực rỡ.
Nguyễn Hữu Hiệu
Vạn Hạnh, 26-09-1971
Khai từ
Duy trì được sự thanh thản giữa một sự vụ u sầu và có thể biện minh quá độ chừng đâu phải là một nghệ thuật không đáng kể: tuy nhiên có điều gì cần thiết hơn thanh thản chăng? Chẳng việc gì thành công nếu lòng hăng hai chẳng tham dự vào. Chỉ có sự thặng dư của sức mạnh mới là bằng chứng của sức mạnh. Đảo hoán mọi Giá Trị, dấu hỏi quá đen, quá lớn hắt bóng tối lên kẻ đặt ra nó, -định mệnh của một công việc như vậy buộc người ta từng giây phút phải lao thẳng vào mặt trời, rũ bỏ vẻ trang nghiêm đã đè ta quá nặng. Tất cả mọi phương tiện đều được biện minh, mọi “cơ hội” đều là cơ hội tốt. Trên tất cả, chiến tranh. Chiến tranh luôn là sự minh mẫn thận trọng ghê gớm của tất cả những tinh thần đã trở nên quá chuyên tâm, của tất cả những tinh thần đã trở nên quá thẳm sâu; khả năng chữa trị đã nằm ngay trong vết thương. Một câu phương ngôn mà xuất xứ tôi cố tình dấu nhẹm óc tò mò trí thức, từ lâu đã trở thành phương châm của tôi:
increscunt animi, virescit volnere virtus [1]
Một hình thức chữa trị khác, trong một vài trường hợp còn thích hợp với tôi hơn nữa, đó là thăm dò những thần tượng… Trên thế giới có nhiều thần tượng hơn là thực tại: đó là “ác nhãn” của tôi đối với thế giới này, đó cũng là “ác nhĩ” của tôi nữa… Ở đây đặt ra những câu hỏi với một chiếc búa và có thể nhận được như một hồi âm cái âm thanh trống rỗng thốt lên tự lòng hiu hiu tự đắc - thích thú thay cho kẻ nào có một đôi tai khác nữa sau đôi tai của mình, - đối với tôi, một tâm lý gia và một kẻ đánh bẫy chuột cố cựu, trước sự hiện diện của kẻ đó quả thực những gì muốn thủ khẩu như bình cũng phải thốt lên tiếng nói…
Cả cuốn sách này nữa - nhan đề đã bộc lộ nội dung - trước hết là một sự giải trí, một chấm ánh sáng, một cuộc đào thoát vào những giờ nhàn rỗi của một tâm lý gia. Có thể còn là một cuộc chiến tranh mới nữa? Và biết đâu có thể bắt được quả tang những bí mật của những thần tượng mới?... Cuốn tiểu luận này là một cuộc khai chiến vĩ đại; còn về vấn đề nhằm thăm dò những thần tượng, lần này không phải là những thần tượng thời đại mà là những thần tượng vĩnh cửu ở đây sẽ bị đụng chạm đến bằng một chiếc búa như thể bằng cái âm thoa - cuối cùng không còn những thần tượng cổ kính nữa… Cũng không còn những thần tượng trống rỗng nữa… Nhưng điều đó không ngăn cản được người ta tin tưởng nhất; cũng như không ngăn cản người ta, ngay cả trong những trường hợp cao quí nhất, không gọi là thần tượng nữa…
Turin, 30 tháng Chín, 1888, ngày hoàn tất cuốn sách đầu tiên của Cuộc đảo hoán mọi Giá Trị [2]
Friedrich Nietzsche
Châm ngôn và tên nhọn
1.
Nhàn cư là khởi đầu của tất cả mọi tâm lý học. Sao? tâm lý học có thể là… một tật xấu?
2.
Ngay cả kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng ít khi có đủ can đảm khẳng định điều hắn thực sự biết.
3.
Để sống một mình người ta phải là một con vật hay một thần thánh - Aristote nói như vậy. Còn có trường hợp thứ ba nữa: người ta phải vừa là thú vật vừa là thần thánh - đó là triết gia.
4.
“Tất cả mọi chân lý đều đơn giản.”- Đó không phải là một lời dối trá phức tạp sao?
5.
Nói một lần dứt khoát, có nhiều điều tôi không muốn biết. - Minh triết vạch ra những giới hạn, ngay cả đối với hiểu biết.
6.
Chính vì trong bản chất của người ta có chất man rợ mà người ta có thể khôi phục lại được sự ác tà của mình, tôi muốn nói tâm linh tính…
7.
Sao? Con người chỉ là một sự nhầm lẫn của Thượng Đế hay Thượng Đế chỉ là một sự nhầm lẫn của con người?
8.
Trường chiến tranh của đời.- Cái gì không giết tôi khiến tôi mạnh mẽ hơn.
9.
Hãy tự giúp mình: rồi tất cả sẽ trợ giúp mình. Nguyên tắc bác ái của Kitô giáo.
10.
Chúng ta đừng hèn nhát trước những hành động của chúng ta! Chúng ta đừng bỏ rơi chúng ta trong cơn bối rối! - Sự hối hận của lương tâm là điều khiếm nhã.
11.
Con lừa có thể bi thảm không? - Bị đè bẹp dưới một gánh nặng mà người ta không thể mang cũng không thể quẳng đi?... Trường hợp của triết gia.
12.
Nếu người ta - thủ hữu câu hỏi tại sao của cuộc đời, người ta sẽ quen với bất cứ câu hỏi thế nào nào - Con người không khát vọng hạnh phúc; chỉ có người Ăng Lê làm vậy thôi.
13.
Người đàn ông đã tạo ra người đàn bà - nhưng bằng gì vậy? Bằng xương sườn Thượng Đế của hắn, - bằng lý tưởng của hắn…
14.
Sao? Bạn đang tìm kiếm gì? Bạn muốn nhân bạn lên một chục lần? Một trăm lần? Bạn tìm kiếm những kẻ theo mình? - Tìm hư không! [3]
15.
Những con người sống lại sau khi đã chết [4] - như tôi chẳng hạn - ít được hiểu hơn những người sống phù thời, nhưng họ được người ta lắng nghe chăm chú hơn. Nói rõ hơn: chúng ta không bao giờ được hiểu cả - và đó chính là quyền uy của chúng ta.
16.
Giữa đám quần thoa. - “Chân lý! Ồ! Chị không biết chân lý là gì rồi! Nó chẳng phải là một toan tính xâm phạm pudeur [5] của chúng ta sao?
17.
Đây là một nghệ sĩ, như những nghệ sĩ tôi yêu, đơn giản trong nhu cầu: hắn thực sự cần có hai điều: bánh mì và nghệ thuật của hắn, - panem et Circen…
18.
Kẻ nào không biết đặt ý chí của mình vào sự vật, muốn ít nhất đặt vào trong đó một ý nghĩa: điều đó khiến hắn tưởng trong đó đã hàm chứa một ý chí (nguyên tắc “tin tưởng”).
19.
Sao? Bạn đã chọn đức hạnh và tâm hồn cao thượng đồng thời lại ghen ghét nhìn lợi lộc của những kẻ thô lỗ phóng tâm trục vật? Nhưng với đức tính người ta khước từ “lợi lộc” mà… (để viết trên cửa nhà những kẻ bài Do Thái).
20.
Một người đàn bà hoàn toàn xúc phạm văn chương cũng như nàng phạm một tội lỗi nhỏ: để thử chơi, trong khi quay đầu lại ngó xem ai có để ý không, và để cho một người nào đó để ý…
21.
Phải đặt mình vào những hoàn cảnh trong đó người ta không được có những đức tính giả hình, nhưng trong những hoàn cảnh ấy, tựa như một người múa trên dây hoặc là người ta té hoặc đứng thẳng hoặc từ bỏ…
22.
“Những người độc ác không biết hát”. Vậy thì tại sao những người Nga lại biết hát?
23.
“Tinh thần Đức”: từ mười tám năm nay [6] là một contradictio in adjecto [7] .
24.
Vì muốn tìm nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con tôm [8] . Nhà sử học nhìn lại đằng sau: cuối cùng ông ta tin tưởng vào phía sau.
25.
Sự thoả mãn bảo vệ người ta khỏi ngay cả sự cảm lạnh. Một người đàn bà biết mặc áo quần đầy đủ có cảm lạnh không nhỉ? - Tôi giả thiết trường hợp nàng mặc quần áo mong manh.
26.
Tôi hồ nghi tất cả những người muốn thiết lập hệ thống và tránh xa họ. Ý muốn lập hệ thống là sự thiếu ngay thẳng thanh liêm.
27.
Người ta nói rằng người đàn bà sâu sắc - tại sao? Bởi vì người ta không bao giờ tới được đáy sâu của họ. Người đàn bà không hời hợt nữa.
28.
Khi người đàn bà có những đức tính đàn ông, người ta lảng tránh nàng, và nếu nàng không có những đức tính ấy, nàng sẽ chạy trốn chính nàng.
29.
Trước kia lương tâm phải cắn nhiều xiết bao! Nó có bộ răng tốt biết mấy! Và ngày nay? Có chuyện gì trục trặc xảy ra? - Vấn đề của nha sĩ.
30.
Ít khi người ta phạm nguyên chỉ một lỗi lầm khinh xuất. Với lỗi lầm khinh xuất đầu tiên, người ta luôn làm quá. Chính vì lý do đó, người ta thường phạm lỗi thứ hai - và bây giờ thì lại quá ít.
31.
Khi bị giẫm chân lên, con con sâu sẽ cuộn mình lại. Đó là tính thận trọng khôn ngoan. Bằng cách đó nó giảm dần tai hoạ bị giẫm lên trên lần nữa. Nói theo ngôn ngữ đạo đức: lòng khiêm tốn.
32.
Sự ghét dối trá và che đậy có thể khởi lên từ quan niệm thái quá về danh dự; sự khinh ghét tương tự có thể khởi lên từ lòng hèn nhát, vì sự dối trá bị cấm bởi luật thiêng liêng. Quá hèn nhát để nói dối…
33.
Cần ít biết chừng nào để được hạnh phúc! Tiếng sáo mục tử. - Không âm nhạc cuộc đời sẽ là một lỗi lầm. Người Đức còn tưởng tượng ngay cả Thượng Đế như một người đang ca hát nữa.
34.
On ne peut penser et écrire qu’assis [9] (G. Flaubert) - Thế là ta tóm được ngươi rồi, kẻ theo hư vô chủ nghĩa! Ngồi đúng là phạm tội với Thánh Linh. Chỉ có những tư tưởng đến với ta khi đang bước đi mới có giá trị mà thôi.
35.
Có những trường hợp chúng ta giống như những con ngựa, chúng ta, những tâm lý gia, và chúng ta trở nên bồn chồn sợ hãi: chúng ta nhìn thấy bóng chúng ta chập chờn trước mặt mình. Tâm lý gia phải quay mặt đi đừng nhìn mình để có thể nhìn thấy tất cả.
36.
Chúng ta có gây tổn thất gì cho đức hạnh không, chúng ta những kẻ vô luân? - Cũng ít như những kẻ vô chính phủ làm hại những ông hoàng vậy thôi. Chỉ khi nào đã bị bắn rồi họ mới có thể ngồi lại một cách vững vàng trên ngôi. Luân lý: người ta phải bắn bỏ luân lý.
37.
Bạn chạy trước những người khác? - Bạn làm như vậy như một mục tử? Hay như một kẻ ngoại hạng? Trường hợp thứ ba có thể như một kẻ đào ngũ… Câu hỏi thứ nhất của lương tâm.
38.
Bạn chân thật? Hay chỉ là một kẻ đóng trò? Một đại diện? Hay chi rlà một kẻ được đại diện? Cuối cùng có lẽ bạn chỉ bắt chước kẻ đóng trò… Câu hỏi thứ hai của lương tâm.
39.
Kẻ bất mãn nói. - Tôi tìm kiếm những vĩ nhân nhưng bao giờ cũng chỉ tìm thấy con khỉ bắt chước lí tưởng của họ.
40.
Bạn là kẻ ngắm nhìn? Hay một kẻ bắt tay vào công việc? - Hay một kẻ ngó lơ quay đi chỗ khác… Câu hỏi thứ ba của lương tâm.
41.
Bạn muốn đi chung cùng bạn hữu? Hay dẫn đầu? Hoặc đi riêng lẻ một mình?... Người ta phải biết mình muốn gì và phải biết rằng mình muốn. - Câu hỏi thứ tư của lương tâm.
42.
Đối với tôi chúng chỉ là những bậc thang và tôi đã bước lên chúng - do đó tôi phải vượt qua chúng. Nhưng chúng lại tưởng rằng tôi muốn ngồi lên chúng.
43.
Có quan hệ gì việc tôi giữ lẽ phải! Tôi có quá nhiều lẽ phải. - Và kẻ nào cười nhiều hôm nay cũng sẽ là kẻ cười cuối cùng.
44.
Định thức hạnh phúc của tôi: một tiếng ừ, một tiếng không, một con đường thẳng, một mục tiêu…
Vấn đề Socrate
1.
Bàn về cuộc đời, những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại đều đưa ra một phán đoán tương tự như nhau: cuộc đời vô giá trị… Bất cứ ở đâu và bao giờ cũng vậy người ta đều nghe thấy câu nói đó thốt ra từ miệng họ. - Một câu nói đầy nghi ngờ, đầy phiền não, đầy chán chường cuộc đời, đầy khinh miệt cuộc đời. Ngay cả Socrate cũng nói lúc lâm chung: “Sống - là đau bệnh một thời gian lâu dài: Ta nợ đấng cứu nhân độ thế Esculape một con gà [10] ” Ngay cả Socrate cũng chán mứa cuộc đời. - Điều đó chứng tỏ gì? Điều đó muốn trỏ cái gì?- Ngày xưa có lẽ người ta sẽ nói (- Ồ, người ta đã nói rồi và nói khá lớn, nhất là những kẻ bi quan của chúng ta): “Chắc chắn phải có một cái gì chân thực ở đây! Consensus sapientium [11] là bằng chứng của chân lý.” – Ngày hôm nay chúng ta sẽ còn nói như thế không? Chúng ta còn được phép làm thế không? “Chắc chắn phải có một cái gì bệnh hoạn ở đây” - đó là câu trả lời của chúng ta. Những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại, ta phải nhìn họ thật gần! Có thể tất cả những người đó chân không còn đứng vững? Chậm trễ? Run rẩy? Décadents [12] biết đâu? Có lẽ sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí?
2.
Quan niệm bất kính cho rằng những bậc hiền nhân vĩ đại là những mẫu sa đoạ [13] khởi lên trong tôi chính trong trường hợp trong đó thành kiến bác học và thành kiến vô học đối chọi nhau kịch liệt: tôi nhận ra Socrate và Platon như những triệu chứng suy đồi, như những công vụ của sự băng hoại của Hy Lạp, như những kẻ nguỵ Hy Lạp, như những kẻ bài Hy Lạp (Sự khai sinh của bi kịch, 1872). Sự consensus sapientium - như càng ngày tôi càng thấy rõ - chẳng chứng tỏ một chút nào rằng họ có lý về điều mà họ đồng ý với nhau: nó chỉ chứng tỏ rằng chính họ, những kẻ khôn ngoan nhất, một cách nào đó về phương diện sinh lý, họ tương tự như nhau để có cùng một thái độ như nhau đối với cuộc đời - để bắt buộc phải có thái độ đó. Sau hết, những phán đoán và những thẩm định giá trị về cuộc đời, dù tán dương hay chống lại, đều không thể đúng được: giá trị đích thực của chúng nằm trong sự kiện chúng là những triệu chứng; chúng chỉ có thể được coi như là triệu chứng mà thôi - trong tự thể những phán đoán này là những điều xuẩn ngốc. Chúng ta phải cố gắng bằng mọi cách để lãnh hội sự tế nhị siêu phàm này là giá trị của cuộc đời không thể thẩm định được [14] . Không thể thẩm định được bởi một người còn sống, bởi hắn là thành phần, là đối tượng của chính cuộc tranh luận nữa, chứ không phải là quan toà; cũng không thể bởi một người đã chết vì một lý do khác. - Về phần một triết gia, nhìn một vấn đề trong giá trị của cuộc đời, là một vấn nạn chống lại chính hắn, một dấu hỏi về sự khôn ngoan của hắn, một sự thiếu khôn ngoan [15] nữa - Sao? Tất cả những người khôn ngoan vĩ đại này - không những họ là nhữngdécadents mà họ còn không khôn ngoan nữa sao? - Nhưng tôi xin trở lại vấn đề Socrate.
3.
Xét về nguồn gốc, Socrate thuộc về đẳng cấp thấp hèn nhất: Socrate thuộc dòng hạ lưu. Người ta biết, người ta có thể thấy ông ta xấu xí biết chừng nào nữa. Nhưng sự xấu xí tự nó đã là một vấn nạn, hầu như là một bác luận nơi người Hy Lạp. Socrate có đúng là người Hy Lạp không? Sự xấu xí thường là dấu hiệu của một sự phát triển bị ngăn chặn, một sự phát triển bị cản trở bởi sự pha giống. Trong trường hợp khác, nó hiện ra như một sự phát triển suy đồi. Những nhà nhân chủng học chuyên khảo về tội ác học tuyên bố rằng kẻ tội phạm đặc trưng xấu xí: monstrum in fronte, monstrum in animo [16] . Nhưng kẻ tội phạm là một kẻ décadent [17] . Socrate có phải là một kẻ tội phạm đặc trưng không? - Dù sao điều đó cũng không trái ngược với ý kiến của nhà chuyên coi tướng mạo, ý kiến khiến bằng hữu của Socrate tức giận. Trong khi đi qua thành Nhã Điển, một người ngoại quốc biết coi tướng mặt đã nói thẳng vào mặt Socrate rằng ông ta chỉ là một quái vật, ông ta chứa dấu trong mình tất cả những tật xấu và những khát vọng đồi bại. Và Socrate chỉ đáp: “Thưa ông, ông biết tôi rõ lắm”.
4.
Không những sự hoang đàng và hỗn loạn của bản năng chỉ sự décadence nơi Socrate: mà sự bội dư của những khả năng luận lý, và sự độc ác méo mó còn là những đặc tính nổi bật nơi ông ta nữa. Chúng ta đừng quên rằng những ảo tưởng thính giác, dưới danh từ “con quỷ của Socrate”, được diễn giải theo một ý nghĩa tôn giáo. Tất cả mọi sự nơi ông ta đều quá đáng, hài hước, hoạt kê, đồng thời đều dấu diếm, có ẩn ý, tà khuất. Tôi cố gắng tìm hiểu xem đặc tính nào đã có thể khai sinh ra cái phương trình Socrate này: lí trí = đức hạnh = hạnh phúc: cái phương trình quái gở nhất, và đặc biệt, nghịch lại tất cả mọi bản năng Hy Lạp xưa.
5.
Với Socrate, thị hiếu Hy Lạp biến đổi theo chiều thuận lợi cho biện chứng pháp: thực ra điều gì đã xảy ra? Trước hết, thị hiếu cao nhã đã biến mất; với biện chứng pháp, đám hạ lưu len chân tới thượng đỉnh. Trước Socrate, những lề lối biện chứng bị khai trừ trong xã hội thượng lưu: chúng bị coi như những kiểu cách xấu xa, chúng có tính cách thoả hiệp bình dân. Thanh niên được cảnh giác lánh xa. Người ta còn nghi kị cả những kẻ trình bầy lý lẽ của mình. Những sự việc lương thiện cũng như những con người lương thiện không mang phơi trần những lý lẽ của mình cách ấy. Phơi bầy cái tốt lành của mình là điều vô phép. Cái cần phải chứng rỏ không có giá trị bao nhiêu. Bất cứ nơi nào mà uy quyền hãy còn thuộc tập tục tốt, bất cứ nơi nào mà người ta không “luận lý” mà chỉ ra lệnh, thì nhà biện chứng pháp là một thứ hề: hắn bị chế nhạo, hắn không được coi trọng. Socrate là tên hề thành công trong việc bắt người khác coi mình là trọng: vậy thì chuyện gì đã thực sự xảy ra?
6.
Người ta chỉ chọn biện chứng pháp khi nào không còn cách nào khác. Người ta biết rằng biện chứng pháp gây ra nghi ngờ, rằng nó không hùng hồn lắm. Không có gì dễ xoá bỏ hơn hiệu quả biện chứng: sự kiện này được chứng minh trong những cuộc hội thảo. Nó chỉ có thể là sự tự vệ cuối cùng của những người không có khí giới. Người ta phải dành giật quyền hành của mình: nếu không, người ta không dùng đến nó. Đó là lý do tại sao, những người Do Thái đều là những nhà biện chứng; Lão Cáo- già [18] là nhà biện chứng: sao vậy? Socrate cũng là một nhà biện chứng sao?
7.
Sự hài hước của Socrate là một biểu lộ của phản kháng? Của lòng hờn oán của đám hạ lưu? Ông ta có thích thú nếm mùi tàn bạo của chính mình trong mũi dao nhọn của tam đoạn luận, như một kẻ bị áp chế không? Ông có trả thù những người quí phái ông dụ hoặc không? - Là một nhà biện chứng, người ta nắm trong tay một khí cụ tàn nhẫn; với sự trợ giúp của nó người ta có thể làm một bạo chúa; người ta thoả hiệp trong khi chiến thắng. Nhà biện chứng để nó lại cho địch thủ để chứng tỏ rằng hắn không phải là một tên ngốc: hắn làm người ta nổi điên và đồng thời trở nên bơ vơ không nơi nương tựa. Nhà biện chứng bất lực hoá trí tuệ đối thủ. Sao? Biện chứng pháp chỉ là một hình thức trả thù trong trường hợp Socrate?
8.
Tôi đã cho thấy bằng cách nào Socrate có thể làm người ta xa lánh: bây giờ điều quan trọng nhất là giải thích sự kiện ông ta đã mê hoặc cách nào. Ông ta đã khám phá ra một nghệ thuật chiến đấu mới, ông ta là kiếm sư đầu tiên của những giới quí tộc ở Nhã Điển, đó là lý do thứ nhất. Ông ta mê hoặc bởi ông ta khêu gợi những bản năng hiếu chiến của người Hy Lạp, - ông ta đã đưa vào trường đô vật giữa người lớn và thanh niên một sự thay đổi. Socrate còn là một người đại dâm đãng.
9.
Nhưng Socrate còn tiên đoán nhiều cái khác nữa. Ông ta nhìn thấu suốt những nhà quí phái Nhã Điển; ông ta thấy rằng trường hợp của ông ta, trường hợp riêng của ông ta, chẳng phải là trường hợp ngoại lệ phi thường, ngay cả trong thời đại ông ta. Sự suy đồi tương tự thầm lặng sửa soạn ở khắp nơi: thành Nhã Điển cổ kính đang hấp hối. Và Socrate hiểu rằng toàn thể thế giới cần ông ta - cần phương thuốc, cách chữa trị, phương thức tự bảo tồn đặc biệt của ông ta. Ở khắp nơi, những bản năng đều ở trong tình trạng hỗn loạn; khắp nơi người ta chỉ cách xa sự thái quá có một bước: monstrum in animo là hiểm hoạ chung. “Bản năng muốn đóng vai bạo chúa chuyên chế; cần phải tạo ra một phản bạo chúa mạnh hơn”… Khi nhà chuyên coi tướng mạo đã cho Socrate thấy con người thực của ông ta, một miệng núi lửa đầy rẫy mọi khát vọng xấu xa, nhà đại hài hước này đã thốt ra một câu cho chúng ta một cái chìa khoá mở vào bản chất của ông ta. “Điều đó đúng, nhưng tôi đã chế ngự được tất cả.” Bằng cách nào Socrate đã tự chủ được chính mình? Trường hợp của ông ta, rốt cuộc cũng chỉ là trường hợp thái quá, một thí dụ rõ rệt nhất của một trạng thái tuyệt vọng đang bắt đầu trở thành phổ quát: không ai còn có thể tự làm chủ mình nữa, những bản năng đang trở nên chống đối lẫn nhau. Ông ta cám dỗ vì là thí dụ thái quá của trạng thái này - sự xấu xí khủng khiếp của ông ta khiến mọi mắt nhìn đều tỏ rõ: ông ta còn cám dỗ hơn nữa, điều đó tự nhiên, như một câu trả lời, như một phương sách, như một cách chữa trị hiển nhiên của trường hợp này.
10.
Khi người ta thấy cần phải biến lí trí thành một bạo chúa chuyên chế, như Socrate đã làm, thì hiểm hoạ một cái gì khác cũng muốn thủ vai bạo chúa chuyên chế không phải là nhỏ. Chính lúc đó lí trí được khám phá như một đấng cứu thế. Cả Socrate lẫn những “kẻ bệnh hoạn” không được tự do chọn có lí hay không có lí: điều đó tính cách de rigueur, đó là phương thuốc cuối cùng của họ. Sự cuồng tín mà toàn thể tư tưởng Hy Lạp nhào vào lí trí tố cáo một tình trạng khẩn trương: như người ta đang trong cơn hiểm hoạ, người ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: hoặc là chìm đắm tận đáy hoặc - lí trí một cách phi lí… Chủ trương đạo đức của những triết gia Hy Lạp từ Platon bị điều kiện hoá của một cách bệnh hoạn; sự thẩm định về biện chứng pháp của họ cũng vậy. Lí trí = đức hạnh = hạnh phúc chỉ có nghĩa: người ta phải bắt chước Socrate và đương đầu với những đam mê đen tối bằng cách thường trực tạo ra ánh sáng ban ngày - ánh sáng lí trí. Phải thận trọng, sáng sủa, minh bạch bằng mọi giá: tất cả mọi nhượng bộ cho bản năng, vô thức đều đưa xuống dốc…
11.
Tôi đã cho thấy cách mà Socrate cám dỗ: ông ta có vẻ là một thầy thuốc, một đấng cứu thế. Có cần phải vạch ra sự sai lầm trong niềm tin vào “lí trí với bất cứ giá nào” của ông ta nữa không? - Đó là một sự tự lừa dối về phía những triết gia và những nhà luân lí khi họ tin tưởng rằng họ thoát ra khỏi sự décadence bằng cách gây chiến với nó. Điều đó ở trên khả năng của họ: cái họ chọn lựa như một phương thuốc, như một phương tiện cứu chuộc, lại chỉ là một sự biểu lộ khác của sự décadence - họ chỉ thay đổi cách biểu lộ của nó, chứ họ không huỷ bỏ được chính nó. Socrate là một sự ngộ nhận; toàn thể luân lí nhằm cải thiện, kể cả luân lí Kitô giáo là một sự ngộ nhận… Ánh sáng chói lọi nhất, lí trí với bất cứ giá nào, đời sống minh bạch, lạnh lùng, thận trọng, ý thức, không phải bản năng, chống lại bản năng, chỉ là một sự bệnh hoạn, một thứ bệnh hoạn mới - chứ không phải là một sự trở về “đức hạnh”, “sức khoẻ”, hạnh phúc… Bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng - đó là định thức của sự décadence: chừng nào mà cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng đồng nhất.
12.
Tự ông ta có hiểu điều đó không, ông ta, người thận trọng nhất trong những kẻ tự lừa dối mình? Ông ta có tự thú nhận với mình vào giây phút cuối cùng, trong sựkhôn ngoan của lòng can đảm trước cái chết không?... Socrate muốn chết: - Không phải Nhã Điển mà chính là ông ta tự trao cho mình chén thuốc độc… “Socrate không phải là thầy thuốc”, ông ta thầm nhủ: “Chỉ có cái chết mới là thầy thuốc ở đây… Chỉ có Socrate mới đau một cơn đau dài…”
[1]Tinh thần lớn mạnh, sức khoẻ gia tăng bởi vết thương - Ghi chú của Dịch giả (G.c.D.)
[2]Tức Kẻ chống Chúa - (G.c.D.)
[3]Suche Nullen! “Nullen” có nghĩa là không ai cả, số không và đồng thời cũng có nghĩa là Hư không. - (G.c.D.)
[4]Posthume menschen. Nietzsche thường tự coi mình như một con người sống phi thời gian (unzeitghe mäss), trên thời gian, độc lập với thời đại, sống như một cái bóng trong lúc sinh thời và chỉ hồi sinh, sống động sau khi đã chết đi. Con người thuộc về tương lai, sống cho và sống với thế hệ mai hậu. CT. “Những suy tưởng phi thời” (Unzeitgemässe Betrachtungen). - G.c.D.
[5]Pháp văn trong nguyên bản: “Ist sie nicht ein Attentat auf alle unsre pudeurs?”: “Nó không phải là sự xâm phạm tiết hạnh của chúng ta sao?” - G.c.D.
[6]Kể từ ngày thành lập Reich (Đế Quốc)
[7]Trái ngược về thời gian
[8]Có lẽ phải viết: “Vì muốn tìm về nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con cua”. Nhưng Nietzsche viết: “Damit, dass man nach den Anfăngen sucht, wird man Krebs” - G.c.D.
[9]Pháp văn trong nguyên bản: “Người ta chỉ có thể suy tưởng và viết khi ngồi.” - G.c.D.
[10]Esculape hay Asklêpios viết theo tiếng Hy Lạp, là Thần Y thuật hay tổ sư nghề thuốc.
[11]La văn: sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan. “Der consensus sapientium beweist die wahrrheit”: “Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.”
[12]Pháp văn trong nguyên bản: suy đồi, một trong những khai ngữ của Nietzsche, chỉ những kẻ bi quan, hướng vọng quá khứ, Thiên Đàng, Thượng Đế và tuyệt vọng - G.c.D.
[13]Niedergangs – Typen - G.c.D.
[14]der Wert des Lebens nicht abgeschätzt werden kann.
[15]Nietzsche công kích Engène Dühring, tác giả Giá trị của cuộc đời - G.c.D.
[16]La văn trong nguyên tác: một quái vật trên nét mặt, một quái vật trong linh hồn.
[17]Nietzsche phân biệt hai thứ tội phạm, một thứ tội phạm vì dũng mãnh, một thứ tội phạm vì yếu hèn. Do đó có một thứ tội phạm phẩm cách cao nhã, một thứ tội phạm đáng kinh tởm. Ở đây nói về loại thứ hai, trong khi ở đoạn 45, chương “Những cuộc viễn hành của con người phi thời” đề cập tới loại thứ nhất. - G.c.D.
[18]Reineke Fuchs - G.c.D.
“Lí trí” trong triết học
1.
Bạn hỏi tôi tất cả đặc chất nơi những triết gia là gì?... Chẳng hạn sự thiếu cảm thức lịch sử của họ, sự thù ghét ý tưởng về Biến Dịch của họ, chủ trương tồn cổ kiểu Ai Cập của họ. Họ tưởng họ làm vẻ vang một sự việc khi họ tước bỏ khía cạnh lịch sử của nó, sub specie aeterni [1] ,- khi họ biến nó thành một xác ướp. Tất cả những ý tưởng mà những triết gia mân mê hàng năm chỉ là những ý tưởng xác ướp; không có gì thực thoát ra khỏi bàn tay họ mà còn sinh động. Họ giết, họ lột da, nhồi trấu khi họ tôn sùng, những vị sùng bái ý tưởng này, - họ trở thành một hiểm họa chết chóc cho tất cả mọi sự khi họ tôn sùng. Chết chóc, thay đổi, tuổi tác, cũng như sinh sản và trưởng thành đối với họ đều là những dị luận - những bác luận nữa. Cái đang hiện hữu không biến dịch; cái biến dịch không hiện hữu… Bây giờ họ hoàn toàn tin, tới độ tuyệt vọng nữa, vào Hữu Thể [2] . Nhưng vì họ không thể nắm được nó, họ tìm kiếm lí do tại sao họ bị ngăn trở không đạt tới. Phải có một Hiển Thể [3] , một sự lừa gạt, ngăn cản không cho chúng ta tri giác Hữu Thể: kẻ lừa gạt ở đâu?” - “Chúng ta nắm được nó rồi”, họ sung sướng kêu lên; “đó là nhục cảm. Những giác quan này, đồng thời cũng rất vô luân, chính chúng lừa gạt chúng ta về thế giới chân thực. Luân lí: thoát ra khỏi sự lừa gạt của giác quan, khỏi biến dịch, khỏi lịch sử: lịch sử không là gì khác hơn sự tin tưởng vào giác quan, tin tưởng vào dối trái. Luân lí: khước từ tất cả những kẻ tin vào giác quan, khước từ toàn thể nhân loại: tất cả những kẻ đó đều thuộc về “quần chúng”. Là một triết gia, là một xác ướp, trình bầy thuyết monotonothéisme bằng cách bắt chước điệu bộ của phu đào huyệt! - Và trên hết, tẩy chay thân xác, cái idée fixe [4] đáng thương của những giác quan! Nhiễm đầy khuyết điểm của luận lí, bị bác bỏ, bất khả nữa, dù khá trơ trẽn khi cư xử như thể nó có thật…”
2.
Với một niềm kính cẩn vô biên, tôi đặt riêng tên tuổi Héraclite [5] sang một bên. Nếu tất cả bọn triết gia khước từ chứng cớ minh bạch của những giác quan bởi chúng cho thấy phức tính và biến chuyển, thì ông cũng khước từ chứng cứ minh bạch của bọn họ vì họ trình bày sự vật như thể chúng có trường cửu tính và nhất tính. Ngay cả Héraclite cũng bất công với những giác quan. Giác quan không lừa dối theo cách những triết gia trường phái Éléates tưởng, cũng không như ông tưởng - chúng không lừa dối bao giờ cả - Chính điều ta tạo nên từ chứng cớ minh bạch của chúng là cái đầu tiên du nhập sự dối trá vào; chẳng hạn sự dối trá của nhất thể, sự dối trá của thực tại, của bản thể, của trường cửu… Lí trí chính là nguyên do của sự xuyên tạc chứng cớ minh bạch của giác quan. Chừng nào mà giác quan chỉ sự biến dịch, sự chuyển biến, sự đổi thay, chúng không dối trá… Nhưng Héraclite sẽ mãi mãi đúng khi tuyên bố rằng Hữu Thể chỉ là một ảo tưởng rỗng tuếch. Thế giới “hiển lộ bề ngoài” là thế giới duy nhất: thế giới “chân thực” chỉ là do sự dối trá thêm vào…
3.
Và những giác quan của chúng ta là những dụng cụ quan sát tinh xảo biết bao! Cái mũi chẳng hạn, mà không triết gia nào không từng cung kính và biết ơn khi nói tới, ngay như cái mũi tạm thời là dụng cụ tế nhị nhất thuộc quyền sử dụng của chúng ta: dụng cụ này có thể ghi nhận những sự sai biệt nhỏ nhặt nhất trong sự vận chuyển, mà ngay cả kiếng quang phổ cũng không thể ghi nhận được. Ngày nay chúng ta có khoa học tới chừng độ nào mà chúng ta quyết định chấp nhận chứng cớ minh bạch của những giác quan,- tới chừng độ mà chúng ta làm bén nhọn và võ trang những giác quan, học suy tưởng chúng tới cùng. Còn lại là sự sẩy non chứ chưa phải là khoa học nữa: nghĩa là siêu hình học, thần học, tâm lý học hay nhận thức luận. Hay khoa học hình thức, lí thuyết về biểu tượng: như luận lí và luận lí học ứng dụng, toán học. Trong tất cả những khoa học này thực tại không hề lộ diện, dù như một vấn đề; cũng hiếm hoi như câu hỏi một hệ thống kí hiệu quy ước như luận lí có giá trị gì vậy.
4.
Đặc chất khác của các triết gia cũng không kém phần nguy hiểm: nó hệ tại việc lẫn lộn cái cuối cùng với cái đầu tiên. Họ đặt cái đến sau cùng - bất hạnh thay! bởi nó không bao giờ được đến! - những “khái niệm cao nhất”, nghĩa là những khái niệm đại cương nhất và rỗng tuếch nhất, đám khói cuối cùng của thực tại bốc hơi, lên đầu và như cái khởi đầu. Một lần nữa đây lại là cách duy nhất biểu lộ lòng sùng kính của họ: cái cao cả nhất không được phép nẩy sinh từ cái thấp nhất, không bao giờ được phép nẩy sinh… Luân lí: tất cả những gì thuộc thượng đẳng phải là causa sui [6] . Bắt nguồn từ một căn nguyên khác bị coi như một vấn nạn, như đáng hồ nghi về giá trị. Tất cả mọi giá trị siêu đẳng phải thuộc thượng đẳng, tất cả mọi khái niệm siêu đẳng như hữu thể, tuyệt đối, chân, thiện, hoàn hảo - tất cả đều không thể “trở thành” do đó phải là causa sui. Nhưng những khái niệm siêu đẳng này cũng không thể bất tương xứng với nhau… Vì lẽ đó họ đi tới khái niệm kì dị của họ về “Thượng đế”… Cái cuối cùng, cái mong manh nhất, trống rỗng nhất được đặt lên đầu, như nguyên nhân của chính nó, như ens realisimum [7] … Nhân loại phải coi trọng những bệnh tưởng đau màng óc của những tên dệt mạng nhện bệnh hoạn này! - Và nhân loại còn phải trả giá rất đắt vì đã làm vậy!...
5.
Để kết luận, chúng ta hãy thiết định đường lối khác biệt trong đó chúng ta (- tôi nói “chúng ta” vì lịch sự…) quan niệm vấn đề sai lầm và hiển thể. Trước kia người ta thường coi sự thay đổi, đột biến là bằng chứng của hiển thể như một dấu hiệu của sự hiện diện của một cái gì đó phải có ở đó để dẫn dắt chúng ta vào chỗ lầm lạc. Ngày nay ngược lại, chúng ta thấy rõ rằng chừng nào mà lí trí bắt buộc chúng ta phải qui định nhất tính, sự trường cửu, thực thể, nguyên do, thực tại, hữu thể là một cách nào đó chúng ta bị vướng mắc vào sai lầm, cần phải sai lầm; dù chúng ta chắc chắn thế nào, căn cứ trên sự kiểm chứng gắt gao, thì sự sai lầm vẫn có ở đó. Ở đây cũng chẳng khác gì sự vận hành của mặt trời: trong trường hợp kia sự sai lầm có con mắt của chúng ta làm nhân chứng, trong trường hợp này có ngôn ngữ của chúng ta không ngớt biện hộ. Trong căn nguyên của nó, ngôn ngữ thuộc về thời đại của những hình thức sơ khai nhất của tâm lí học: chúng ta sẽ thấy mình ở giữa lòng sự sùng bái vật thần thô thiển nếu chúng ta triệu hồi những điều kiện cơ bản của khoa siêu hình học của ngôn ngữ, nghĩa là của lí trí, tới trước ý thức. Khắp nơi nó chỉ thấy tác nhân và tác động [8] : nó tin vào ý chí như nguyên nhân tổng quát; nó tin vào “tự ngã”, tin vào tự ngã như hữu thể, tin vào tự ngã như thực thể và nóphóng chiếu lòng tin tưởng vào tự ngã-thực thể [9] của nó lên tất cả mọi sự vật - chỉ bằng cách đó nó mới sáng tạo ra khái niệm “sự vật”… Khắp nơi hữu thể được quan niệm, tiếp dẫn vào, như là nguyên nhân; chính từ khái niệm về “ngã” mới tiếp nối, nẩy sinh ra khái niệm về “hữu thể”… Thoạt kì thuỷ, là sự sai lầm tai hại lớn lao cho rằng ý chí là một cái gì tác động, rằng ý chí là một năng lực… Ngày nay chúng ta biết rằng đó chỉ là một danh từ không hơn không kém… Rất lâu sau, trong một thế giới trăm ngàn lần sáng lạn hơn, sự chắc chắn, sự xác tín chủ quan, trong sự sử dụng những phạm trù của lí trí [10] đột nhiên đến với ý thức của những triết gia: họ kết luận rằng chúng không thể đến từ kinh nghiệm, - vì quả thực tất cả những gì thuộc kinh nghiệm đều không thích hợp với chúng. Vậy thì chúng bắt nguồn từ đâu?Ở Ấn Độ, cũng như ở Hy Lạp, người ta đều mắc chung một lỗi lầm này: “Ngày xưa chắc chắn chúng ta phải ở trong một thế giới cao siêu hơn (- thay vì nói trong một thế giới hạ đẳng hơn rất nhiều, điều đó mới đúng!) - “chắc chắn chúng ta phải thần thánh lắm, bởi vì chúng ta có lí trí!”… Từ trước tới nay không có gì có sức thuyết phục ngây thơ hơn sự sai lầm về hữu thể, như nó được hình thành bởi những triết gia thuộc trường Éléate chẳng hạn: vì mỗi chữ, mỗi câu chúng ta thốt ra đều nói lên vì nó! - Ngay cả những đối thủ của trường Éléate cũng chịu cái ảnh hưởng quyến rũ của khái niệm về hữu thể của họ: trong số những người đó có Démocrite, khi ông phát kiến ra nguyên tử… “Lí trí” trong ngôn ngữ: Ôi! thật là một con mụ lường gạt đáo để! Tôi sợ rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi Thượng Đế vì chúng ta hãy còn tin vào văn phạm…
6.
Người ta sẽ cảm ơn tôi nếu tôi cô đọng một sự sáng suốt vô cùng mới mẻ và quan trọng vào bốn luận đề: bằng cách này tôi sẽ khiến nó dễ hiểu hơn, bằng cách này tôi sẽ khơi ra sự mâu thuẫn.
Mệnh đề thứ nhất: Những lí do khiến thế giới “này” được coi như một thế giới của hiển thể, chính là những lí do chứng minh thực tại của nó, - một thực tại khác tuyệt đối không thể chứng minh được.
Mệnh đề thứ hai: Những đặc tính người ta gán cho “hữu thể chân thực” [11] của sự vật thẩy đều là những đặc tính của vô thể [12] của hư thể [13] - “thế giới chân thực” được xây dựng bằng cái mâu thuẫn của thế giới đích thực: quả thực thế giới hiển lộ [14] nếu được nhìn như thế, thì nó chỉ là một ảo tưởng thị giác luân lí.
Mệnh đề thứ ba: Nói về một thế giới “khác” thế giới này là điều hoàn toàn vô nghĩa, miễn là chúng ta không có một bản năng mãnh liệt buộc chúng ta phỉ báng, dèm pha và lên án cuộc đời này: trong trường hợp sau chúng ta trả thù cuộc đời bằng sự lạm dụng ảo tưởng về một cuộc đời “khác”, một “cuộc đời tốt đẹp hơn”.
Mệnh đề thứ tư: Chia thế giới ra làm một thế giới “thực” và một thế giới “hiển lộ” hoặc theo lối của Kitô giáo hay lối của Kant (sau rốt, cũng chỉ là một tín đồ Kitô xảo quyệt) thì cũng chỉ là một dấu hiệu của sự décadence - một triệu chứng của cuộc sống sa đoạ. Sự kiện người nghệ sĩ đặt hiển thể lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “hiển thể” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa nhưng mà dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai… Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm, - hắn chính là kẻ khẳng định tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp trong cuộc đời, hắn là một kẻ theo Dionysos.
*
“Thế giới chân thực” cuối cùng trở thành một huyền thoại như thế nào
Lịch sử một lầm lẫn
1.
Thế giới chân thực, rộng mở cho hiền nhân, kẻ mộ đạo, người đức hạnh - hắn sống trong đó, hắn là thế giới đó.
(Hình thức tư tưởng cổ điển nhất, khá dễ hiểu, đơn giản, hùng hồn. Uyển-khúc-pháp của mệnh đề: “Ta, Platon, ta là chân lí.”) [15]
2.
Thế giới chân thực, khép kín với giây phút, nhưng hứa hẹn với hiền nhân, kẻ mộ đạo, người đức hạnh (“với kẻ tội đồ ăn năn”).
(Sự tiến bộ của tư tưởng: nó trở nên tế nhị hơn, phỉnh gạt hơn, khúc mắc hơn, - nó trở thành đàn bà, nó trở thành tín đồ Kitô giáo…)
3.
Thế giới chân thực, khép kín, không thể chứng minh, không thể hứa hẹn, nhưng, dù chỉ mơ tưởng, là một an ủi, một mệnh lệnh.
(Vẫn là mặt trời xưa cũ, nhưng mờ tối vì sương mù và hồ nghi; ý tưởng trở nên xanh xao, thuộc về miền bắc, của người ở Königsberg [16] )
4.
Thế giới chân thực, khép kín? Khép kín trong bất cứ trường hợp nào. Và vì khép kín nên cũng bất khả tri. Vì lẽ đó nó cũng không an ủi, không cứu rỗi, không bổn phận: làm thế nào một bất khả tri có thể buộc chúng ta một điều gì đó?
(Sớm mai xám. Những cái ngáp dài đầu tiên của lí trí. Tiếng gà gáy của thuyết duy nghiệm).
5.
Thế giới “chân thực” - một ý tưởng vô dụng, không có ý nghĩa ngay cả như một bổn phận nữa - một ý tưởng đã trở nên vô tích sự, dư thừa, do đó, một ý tưởng bị bác bỏ: chúng ta hãy tiêu diệt nó đi!
(Ngày sáng lạn; bữa điểm tâm đầu tiên; sự trở về của bon sens và vui tươi; Platon đỏ mặt vì mắc cỡ; tất cả mọi tinh thần tự do gây huyên náo dữ dội.)
6.
“Thế giới chân thực”, chúng ta đã tiêu diệt rồi: còn lại thế giới nào? Có lẽ thế giới hiển lộ chăng?... Nhưng không! Với thế giới chân thực chúng ta đã tiêu diệt thế giới của những hiển thể!
(Giữa ngọ: khoảnh khắc bóng tối ngắn ngủi nhất: chung cục của sự sai lầm lâu dài nhất; cực điểm của nhân loại; INICIPIT ZARATHUSTRA.) [17]
*
Luân lí như một cái gì phản tự nhiên
1.
Tất cả mọi đam mê đều có một thời trong đó chúng chỉ là tai hoạ, trong đó chúng dìm những nạn nhân dưới sức nặng của sự điên cuồng của chúng, - và một thời kế tiếp, rất lâu sau trong đó, chúng kết hợp với tinh thần, trong đó chúng tự “tinh thần hoá”. Ngày xưa, vì sự điên cuồng trong đam mê, người ta đã gây chiến với chính đam mê: người ta âm mưu tiêu diệt nó, - tất cả mọi quái vật luân lí cổ điển đều đồng tâm nhất trí với nhau về điểm này: “il faut tuer les passions” [18] . Định thức lừng danh nhất cho việc này nằm trong Tân Ước, đoạn Bài Giảng trên Núi, nơi, xin nói qua, những sự vật không hề được nhìn từ một đỉnh cao. Chẳng hạn nói về dục tình: “Nếu con mắt các ngươi lăng nhục các ngươi, hãy móc mắt ra.”: may mắn thay không tín đồ Kitô giáo nào theo lời khuyên này. Tiêu diệt những đam mê và khát vọng chỉ vì sự điên cuồng của chúng, và để ngăn ngừa những hậu quả tai hại của chúng - dường như đối với chúng ta ngày nay chỉ là một hình thức bén nhọn của điên cuồng. Chúng ta không còn thán phục những nghệ sĩ chuyên nhổ răng để chúng không làm đau được nữa… Đằng khác có thể công bình chấp nhận rằng, trên lãnh vực mà Kitô giáo tăng trưởng, ý tưởng về sự “tinh thần hoá đam mê” không thể quan niệm được. Bởi Giáo Hội nguyên thuỷ, như mọi người đều biết, chống lại những kẻ “thông minh” vì lợi ích của những kẻ “nghèo khó trong tinh thần”, làm sao người ta có thể trông đợi nó một cuộc chiến thông minh chống lại đam mê được? Giáo Hội đánh phá những đam mê bằng cách làm cỏ tận rễ, biện pháp cách “chữa trị” của Giáo Hội là thiến. Giáo Hội không bao giờ hỏi: “Làm thế nào người ta có thể tinh thần hoá, tô điểm, thần thánh hoá một dục vọng?”- Giáo Hội luôn đặt nặng kỷ luật của mình lên sự tuyệt diệt (dục vọng, lòng kiêu căng, tham vọng quyền lực, biển lận, thù hận) - Nhưng tấn công đam mê tận gốc rễ của nó có nghĩa là tấn công cuộc đời tận gốc rễ của nó vậy: biện pháp của Giáo Hội thù nghịch với cuộc đời…
2.
Cũng phương thuốc đó: sự thiến và diệt dục đó, được chọn dùng một cách tự nhiên theo bản năng trong cuộc chiến đấu chống lại dục vọng bởi những ý chí quá yếu đuối, quá sa đoạ để có thể cưỡng bách dục vọng đó phải chấp nhận một giới hạn; bởi những bản chất cần la Trappe [19] , nói một cách ẩn dụ (và không hình ảnh), một sự khai chiến quyết liệt của lòng cừu hận, một vực thẳm ngăn cách giữa họ và đam mê. Chính những kẻ sa đoạ mới thấy những phương tiện triệt để là tối cần thiết; sự yếu đuối của ý chí, rõ rệt hơn sự bất lực không thể phản ứng chống lại một sự kích thích, chính nó mới là một hình ảnh của sa đoạ. Lòng cừu hận triệt để, sự căm thù không đội trời chung đối với nhục cảm luôn luôn là một triệu chứng trầm trọng cần phải xét lại; người ta có quyền đặt những giả thiết về tình trạng chung của một kẻ cực đoan về phương diện này. - Tuy nhiên, lòng cừu hận, sự căm thù này chỉ lên tới cao độ khi những bản chất này không còn đủ quả cảm ngay cả cho sự chữa trị tận gốc rễ, cho sự khước từ “ma quỷ” của họ. Thử nhìn lướt qua toàn thể lịch sử những tu sĩ và những triết gia, kể cả những nghệ sĩ nữa: những lời nói hiểm độc nhất nhằm chống lại giác quan không xuất phát từ những kẻ bất lực cũng chẳng từ những kẻ khổ hạnh, mà là từ những kẻ thấy mình không thể trở nên khổ hạnh, vì những kẻ cần trở nên khổ hạnh…
3.
Sự tinh thần hoá nhục cảm được gọi là tình yêu: đó là một chiến thắng lớn lao trên Kitô giáo. Một chiến thắng khác nữa là sự tinh thần hoá lòng cừu hận của chúng ta. Nó hệ tại sự thấu hiểu sâu xa giá trị của việc có kẻ thù: tóm lại, hệ tại sự hành động và suy tưởng ngược lại đường lối người ta hành động và suy tưởng ngày xưa. Giáo Hội bao giờ cũng chỉ muốn tiêu diệt kẻ thù: chúng ta, những kẻ vô luân và chống Kitô giáo, chúng ta thấy rằng Giáo Hội tồn tại là điều ích lợi cho chúng ta… Trong chính trị cũng vậy, lòng cừu hận đã trở nên tinh thần hơn - thận trọng hơn, chín chắn hơn, an hoà hơn rất nhiều. Hầu hết mọi đảng đối lập của họ không đi đến chỗ suy yếu là điều có lợi cho chính sự tự bảo tồn của họ; sự kiện này đúng cả trong trường hợp đại chính trị. Một sự sáng tạo mới, một Đế quốc chẳng hạn, cần thù hơn cần bạn: chỉ khi đối chọi, nó mới tự cảm thấy cần thiết, chỉ khi đối chọi, nó mới trở nên cần thiết… Chúng ta chấp nhận một thái độ tương tự đối với kẻ “nội thù”: ở đó chúng ta cũng tinh thần hoá cừu hận, ở đó chúng ta mới hiểu giá trị của nó. Người ta chỉ phong phú với điều kiện phải trả giá bằng cách có nhiều mâu thuẫn; người ta chỉ trẻ với điều kiện tâm hồn không nghỉ ngơi, tâm hồn không khát khao yên ổn. Không có gì xa lạ với chúng ta hơn cái khát vọng “thanh bình của tâm hồn” ngày xưa, khát vọng của người Kitô; không có gì khơi dậy trong lòng chúng ta ít thèm muốn cho bằng con bò cái luân lí và sự thoả mãn mập ú của lương tâm yên ổn… Người ta đã khước từ cuộc đời vĩ đại khi người ta khước từ chiến tranh… Quả thực, trong nhiều trường hợp, sự “thanh bình của tâm hồn” chỉ là một điều ngộ nhận, - nó là một cái gì khác không biết làm thế nào tự cho mình một cái danh xưng lương thiện hơn. Không quanh co và không thành kiến, đây là một vài trường hợp. Chẳng hạn sự “thanh thản của tinh thần” có thể là sự phát quang êm dịu của một thú tính phong phú vào trong lãnh vực luân lí (hay tôn giáo). Hay có thể là sự bắt đầu của mỏi mệt, bóng tối đầu tiên mà buổi chiều, tất cả mọi thứ chiều, toả ra. Hay có thể là một dấu hiệu chỉ rằng không khí ẩm ướt, rằng gió nồm sắp thổi. Hay có thể là lòng cám ơn miễn cưỡng đối với một sự tiêu hoá tốt đẹp (đôi khi còn có tên là tình thương nhân loại). Hay có thể là sự tĩnh lặng tạm thời của người mới khỏi bệnh thấy tất cả mọi sự vật đều có một hương vị mới và chờ đợi… Hay có thể là trạng thái tiếp theo sau một sự thoả mãn mãnh liệt của nỗi đam mê mạnh nhất của chúng ta, cảm giác thích thú của một sự no đầy hiếm có. Hay có thể là sự suy nhược của ý chí chúng ta, của những ước vọng của chúng ta, của những tật xấu của chúng ta. Hay có thể là sự lười biếng, bị thuyết phục bởi lòng phù phiếm, tự trang điểm bằng luân lí. Hay có thể là sự xuất hiện của một niềm xác tín khủng khiếp, sau sự căng thẳng kéo dài và sự dày vò của hồ nghi. Hay có thể là sự biểu lộ của trưởng thành và tự chủ, giữa hành động, sự sáng tạo, cố gắng, ước muốn, một hơi thở lặng lẽ khi sự “tự do của ý chí”đã đạt tới… Hoàng Hôn của những thần tượng: Ai biết? Hay đó cũng có thể là một thứ “thanh bình của tâm hồn” mà thôi…
4.
Tôi đặt một nguyên tắc thành định thức. Tất cả mọi chủ trương duy nhiên trong luân lí, nghĩa là tất cả luân lí lành mạnh, đều bị chế ngự bởi bản năng sống [20] ,- một giới luật của cuộc sống nào đó, được làm tròn qua một qui luật “Phải” và “Không được”, một sự ngăn cấm hay một sự cừu hận nào đó trên đường đời, như thế đều bị gạt qua một bên. Luân lí phản tự nhiên, nghĩa là tất cả nền luân lí từ xưa tới nay đã được giảng dạy, tôn kính và thuyết giáo, ngược lại, chắc chắn nhằm chống lại những bản năng sống, nó là một sự lên án những bản năng này, khi thì bí mật, khi thì ồn ào và trơ trẽn. Khi nói rằng: “Thượng Đế nhìn thấu suốt con tim”, nó đã khước từ những ước vọng sâu xa nhất và cao viễn nhất của cuộc sống và coi Thượng Đế như kẻ thù của cuộc đời… Bậc Thánh mà Thượng Đế hài lòng là một kẻ bị thiến lí tưởng… Cuộc đời chấm dứt ở nơi mà “nước Chúa” bắt đầu…
5.
Khi người ta đã hiểu sự phạm thượng trong một cuộc đời loạn chống lại cuộc đời như thế này, như nó đã trở thành cực kỳ tôn nghiêm trong luân lí Kitô giáo, chính nhờ điều đó người ta sẽ may mắn hiểu được thêm một vài điều khác nữa: đó là sự vô ích, mê vọng hão huyền, phi lí, dối trá của một sự nổi loạn như vậy. Vì một sự lên án cuộc đời bởi một kẻ đang sống cuối cùng chỉ là triệu chứng của một lối sống xác định nào đó: vấn đề sự lên án này đúng hay không đúng không hề được đặt ra. Người ta phải đặt mình ở bên ngoài cuộc đời, và mặt khác phải hiểu biết thấu suốt cuộc đời như bất kỳ, như đa số, như tất cả mọi người đã cảm nghiệm nó, mới được phép đụng chạm tới vấn đề giá trị của cuộc đời: đó là những lý do túc lí để thấy rằng vấn đề này là một vấn đề ở ngoài tầm đối với chúng ta. Khi chúng ta nói về giá trị, chúng ta không nói vì cảm hứng và từ lăng kính của cuộc đời: chính cuộc đời buộc chúng ta phải thiết định những giá trị; chính cuộc đời đã đánh giá trị qua chúng ta khi chúng ta thiết định những giá trị [21] … Do đó tất cả mọi luân lí phản tự nhiên coi Thượng Đế như khái niệm mâu thuẫn và lên án cuộc đời, thực ra đầu chỉ là một sự đánh giá giá trị cuộc đời, - cuộc đời nào? Thứ cuộc đời nào? - Nhưng tôi đã trả lời rồi: cuộc đời xuống dốc, suy nhược, mệt mỏi, bị lên án - Luân lí, như được hiểu từ xưa tới nay - như cuối cùng được thiết định thành định thức bởi Schopenhauer, như là sự “khước từ ý chí sinh tồn” - thứ luân lí này chính là bản năng suy đồi, tự biến thành một mệnh lệnh: nó nói: “Hãy diệt vong đi!” - đó là sự phán xét của những kẻ bị phán xét…
6.
Sau cùng chúng ta hãy thử xem người ta ngây thơ đến chừng nào khi nói rằng: “Người ta phải thế này thế nọ!” Thực tế cho chúng ta thấy biết bao mẫu người kì lạ, biết bao sai biệt và biến đổi trong hình thức; thế mà nhà luân lí lười biếng đã đi rêu rao: “Không, con người bắt buộc phải khác”?... Hắn còn biết con người bắt buộc phải khác như thế nào nữa, kẻ cuồng tín đáng thương này, hắn tự vẽ chân dung hắn lên tường và nói: “ecce homo!” [22] … Nhưng ngay cả khi nhà luân lí quay sang nói riêng một mình với cá nhân: “Bạn phải giống như thế này!”, hắn vẫn không ngừng khiến mình trở thành lố bịch. Cá nhân, trong quá khứ và trong hiện tại, là một mảnh định mệnh, một luật lệ thêm nữa, một thiết yếu thêm nữa cho tất cả những gì biển hiện và tất cả những gì sắp tới. Nói với nó: “Bạn hãy thay đổi bạn đi!” có nghĩa là đòi hỏi rằng tất cả phải thay đổi, ngay cả trong quá khứ… Quả thật, có nhiều nhà luân lí hợp lí khi muốn rằng con người phải khác, nghĩa là phải có đức hạnh, họ muốn hắn phải rập theo hình ảnh của họ, theo hình ảnh của những kẻ giả đạo đức. Chính vì lẽ đó mà họ đã chối bỏ thế giới. Không phải không điên chút nào!... Chừng nào mà luân lí lên án vì lợi ích của chính nó, không đếm xỉa gì tới cứu cánh và mục đích của cuộc đời, thì nó là một sự sai lầm đặc biệt người ta không thể nương tay, mộtđặc chất của những kẻ sa đoạ đã gây ra không biết bao nhiêu là tai hại! Trái lại chúng ta, những kẻ phi luân, chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận tất cả mọi thứ hiểu biết, thấu hiểu và tán thành [23] . Chúng ta không phủ định một cách nông nổi dễ dàng, chúng ta tìm danh dự của chúng ta trong việc trở thành những kẻ khẳng định[24] . Cặp mắt chúng ta luôn luôn mở rộng hơn nữa cho sự cần kiệm còn cần dùng và biết dùng tất cả cái mà sự điên rồ thiêng liêng của những tu sĩ và lí trí bệnh hoạncủa những tu sĩ thải đi, cho sự cần kiệm trong luật đời rút tỉa lợi ích cho mình từ những loại đạo đức giả, những tu sĩ và những kẻ đức hạnh nhơ nhớp nhất, - lợi ích gì? - Nhưng mà chính chúng ta, chúng ta những kẻ phi luân, chính chúng ta đây đã là một lời giải đáp sống động rồi…
*
Bốn sai lầm trầm trọng
1.
Sai lầm giữa nguyên nhân và hậu quả. - Không có sự sai lầm nào nguy hiểm hơn sự lầm lẫn cho hậu quả là nguyên nhân: tôi gọi điều đó là sự đảo điên thác loạn đích thực của lí trí. Tuy nhiên, sự sai lầm này là một trong những tập quán cố cựu nhất và mới mẻ nhất của nhân loại: nó còn được thần thánh hoá giữa chúng ta nữa, nó mang tên “tôn giáo” và “luân lí”. Bất cứ mệnh đề nào phát biểu, bởi tôn giáo và luân lí cũng đều chứa đựng sai lầm này; những tu sĩ và những kẻ thiết định qui tắc luân lí là những kẻ chủ xướng sự bại hoại này của lí trí. Tôi đan cử một thí dụ. Tất cả mọi người đều biết cuốn sách nổi tiếng của Cornaro trong đó ông ta giới thiệu sự ăn uống kiêng khem nghiêm nhặt của ông như phương pháp cho một đời sống lâu dài và sung sướng - một đời sống đức hạnh nữa. Ít có cuốn sách nào được đọc nhiều đến thế và ngay cả bây giờ ở Anh, mỗi năm người ta in hàng trăm ngàn cuốn. Tôi tin rằng ít có cuốn sách nào (trừ Kinh Thánh, dĩ nhiên) lại tác hại nhiều như thế, lại rút ngắn nhiều đời sống như sự kỳ lạ đầy hảo ý đó. Lý do: lầm lẫn cho hậu quả là nguyên nhân. Tác giả người Ý đáng kính này nhìn thấy trong sự ăn uống kiêng khem lànguyên nhân của sự trường thọ của ông: trong khi điều kiện tiên quyết để sống lâu, sự chậm rãi lạ lùng trong sự tiêu hoá, sự thẩm thấu yếu ớt, là nguyên nhân của sự ăn uống kiêng cữ của ông. Ông ta không tự ý muốn ăn nhiều ít thế nào cũng được, sự đạm bạc của ông ta không phải là một “sự tự do theo ý muốn”: ông ta đau ốm ngay khi ông ta ăn nhiều. Nhưng khi người ta không phải là một kẻ ốm trơ xương thuộc loại đó, thì không những người ta phải ăn uống đầy đủ mà người ta còn tuyệt đối cần phải ăn uống đàng hoàng nữa. Một nhà bác học thời đại chúng ta, với sự tiêu thụ năng lượng trí não mau chóng, chẳng bao lâu sẽ tàn tạ với régime [25] của Cornaro, Credo experto [26] .
2.
Định thức phổ quát dùng làm căn bản cho mọi tôn giáo và luân lí là: “Phải làm việc này việc nọ, không được làm việc này hay việc nọ - và người sẽ được sung sướng! Nếu không…” Tất cả mọi luân lí, mọi tôn giáo là mệnh lệnh đó, - tôi gọi đó là tội tổ tông của lí trí, sự phi lí muôn đời. Trong miệng tôi định thức này đổi thành ngược lại - thí dụ đầu tiên về sự “đảo hoán mọi giá trị” của tôi: một người cường tráng, một người “sung sướng” bắt buộc phải làm một số hành động nào đó và tự nhiên chùn lại sợ không dám làm một số những hành động khác; hắn mang đẳng cấp hắn tiêu biểu về phương diện sinh lí vào trong những giác quan của hắn với con người và sự vật. Phát biểu thành định thức: đức hạnh của hắn là kết quả của hạnh phúc hắn… [27] Cuộc sống trường thọ con cháu đầy đàn, không phải là phần thưởng của đức hạnh đúng hơn chính đức hạnh, là sự trì trệ trong tiến trình thẩm thấu mà một trong những hậu quả của nó là một cuộc sống trường thọ và hậu huệ đầy đàn, tóm lại, cái mà người ta gọi là chủ thuyết Cornaro. - Giáo Hội và Luân lí dạy: “Tật xấu và sự xa hoa làm tiêu diệt một chủng tộc hay một dân tộc.” Trái lại lí trí đã được chỉnh đốn lại của tôi khẳng định: “Khi một dân tộc diệt vong, suy đồi về phương diện sinh lí, thì từ đó mới nảy sinh những tật xấu và sự xa hoa (nghĩa là nhu cầu kích thích mỗi ngày một mạnh hơn và thường hơn, như tất cả những bản chất suy nhược đều biết). Gã trai trẻ kia gầy yếu xanh xao và mòn mỏi trước tuổi. Bạn bè hắn nói: bệnh này hay bệnh nọ là nguyên nhân của sự kiện đó. Tôi trả lời: chính sự kiện hắn bệnh tật, chính sự kiện hắn thất bại không thể chống lại bệnh hoạn, tự nó đã là hậu quả của một cuộc sống nghèo nàn, một sự suy nhược di truyền rồi. Những kẻ đọc báo [28] nói: đảng này sẽ suy sụp nếu phạm phải một lỗi lầm như thế. Chính trị cao viễn của tôi trả lời: một đảng phái mà phạm phải một lỗi lầm như thế là đã đến lúc tàn mạt rồi vậy - nó không còn có sự chính xác bản năng nữa. Tất cả mọi lỗi lầm, bất cứ thuộc loại nào, là hậu quả của sự suy đồi của bản năng, của sự phân hoá của ý chí: đó hầu như là định nghĩa của cái xấu. Tất cả mọi sự tốt lành là bản năng [29] - và do đó dễ dàng, thiết yếu, thong dong. Sự cố gắng là một vấn nạn, thần thánh đặc biệt khác hẳn người anh hùng (nói theo ngôn ngữ của tôi: đôi chân nhẹ nhàng là đặc tính đầu tiên của thần tính).
3.
Sai lầm về một giả nguyên nhân. - Người ta luôn luôn tưởng mình biết thế nào là một nguyên nhân; nhưng chúng ta rút sự hiểu biết của chúng ta, hay đúng hơn, lòng tin tưởng vào sự hiểu biết của chúng ta, từ đâu ra? Từ lãnh vực của những “sự kiện nội tại” lừng danh mà cho đến bây giờ chưa có một sự kiện nào tự chứng tỏ là một sự kiện xác thực. Chúng ta tin tưởng chúng ta là tác nhân trong hành động theo ý chí: ít ra là ở đây chúng ta tin rằng chúng ta bắt được quả tang nguyên nhângiữa đường trường. Tương tự như vậy, người ta không bao giờ ngờ được rằng mọi anteccedentia [30] của một hành động, nguyên nhân của nó, phải tìm trong ý thức và có thể khám phá thấy ở đấy nếu người ta tìm kiếm chúng - như những “duyên cớ”: bởi nếu không người ta đã không tự do hành động, chịu trách nhiệm về hành động đó. Cuối cùng, kẻ nào đã bàn cãi rằng một tư tưởng đã được khởi lên, rằng cái tôi đã khơi nguồn tư tưởng?... Từ ba “sự kiện nội tại” và nhờ đó nguyên nhân hầu như được đảm bảo, nguyên nhân thứ nhất và cũng là nguyên nhân hùng hồn nhất, là ý chí như là nguyên nhân; quan niệm về một ý thức (“tinh thần”) như nguyên nhân, và sau đó quan niệm về cái tôi (“chủ thể”) như nguyên nhân chỉ là sản phẩm hậu sinh, sau khi nguyên nhân, trên nền tảng ý chí, đã được thiết định vững vàng như một sự kiện, như kinh nghiệm… Trong khi đó chúng ta suy nghĩ chín chắn hơn về điều đó. Tất cả những điều đó ngày nay chúng ta không còn tin tưởng một chữ nào nữa. “Thế giới nội tại” đầy những ảo ảnh và ánh sáng giả tạo: ý chí là một trong những ảo ảnh đó. Ý chí không còn chuyển động được cái gì nữa, do đó không còn giải thích được gì nữa - nó chỉ đi theo những biến cố, nó còn có thể vắng mặt nữa. Cái được gọi là “duyên cớ”: một sự lầm lẫn khác. Đó chỉ là một hiện tượng hời hợt của ý thức, một cái gì đi bên cạnh hành động, che dấu hơn là bầy tỏ những tiền sự của hành động. Còn về phần cái tôi! Cái tôi đã trở thành một huyền thoại, một sự tưởng tượng, một trò chơi chữ: nó đã hoàn toàn ngừng suy nghĩ, cảm và muốn!... Từ đó xẩy ra điều gì? Không có cái gì là nguyên nhân tinh thần cả! Toàn thể nền tảng kinh nghiệm vững chắc bảo đảm cho nó đã đi đời nhà ma! Đó là cái nối tiếp theo! - Và chúng ta đã lạm dụng “duy nghiệm thuyết” một cách khôn ngoan, chúng ta đã sáng tạo thế giới trên nền tảng của nó như một thế giới của nguyên nhân, như một thế giới của ý chí, như một thế giới của tinh thần. Nền tâm lý học cổ điển nhất và sống dai dẳng nhất đã ra tay làm việc ở đây, thực ra nó không làm việc gì khác: tất cả mọi biến cố đối với nó đều là hành động, tất cả mọi hành động đều là hậu quả của một ý chí; đối với nó thế giới trở thành vô vàn tác nhân, một tác nhân, một “chủ thể” nằm tại căn đế của mọi biến cố. Con người đã phóng ra ngoài nó ba “sự kiện nội tại” mà nó tin tưởng chắc chắn, là ý chí, tinh thần và tự ngã, - trước hết nó diễn dịch ý niệm về hữu thể từ ý niệm về tự ngã, nó giả thiết “sự vật” hiện hữu theo hình ảnh nó, theo ý niệm của nó về tự ngã như là nguyên nhân. Có gì đáng ngạc nhiên đâu khi sau này nó luôn tìm thấy trong sự vật cái mà nó đã đặt vào trong sự vật? - Chính sự vật, xin nhắc lại lần nữa, khái niệm về sự vật, chỉ là phản ảnh của niềm tin vào tự ngã như là nguyên nhân… Và ngay cả nguyên tử của quí vị, thưa quí vị theo cơ giới luận và vật lí học, thứ tâm lí sai lầm không biết chừng nào mà kể vẫn bám chặt vào nguyên tử của quí vị! - Ấy là chưa nói gì về “sự vật tự nội”, cáihorrendum pudendum [31] của nhà siêu hình học! Sự sai lầm của tinh thần được coi như nguyên nhân, lẫn lộn với thực tại! Và đo lường thực tại! Và được gọi là Thượng Đế!
4.
Sai lầm về những nguyên nhân tưởng tượng. - Lấy giấc mơ làm khởi điểm: với một cảm giác xác định nào đó, chẳng hạn cảm giác gây ra bởi tiếng súng đại bác từ phía xa, một nguyên nhân liền sau đó thường được gán ghép vào (thường là cả một cuốn tiểu thuyết nhỏ mà dĩ nhiên kẻ mơ mộng là nhân vật chính). Trong khi đó cảm giác tiếp tục kéo dài, như một thứ âm hưởng dội lại, một cách nào đó nó chờ đợi cho đến khi bản năng về nguyên nhân cho phép nó đi lên hàng đầu - từ nay trở đi không phải như một sự tình cờ nữa mà như một “ý nghĩa”. Tiếng súng đại bác tự biểu lộ dưới hình thức nguyên nhân, trong một sự đảo lộn thời gian thấy rõ. Cái đến sau, trình bày duyên cớ, lại được cảm nghiệm trước, thường với hàng trăm chi tiết lướt qua như một tia chớp, tiếng súng tiếp theo… Điều gì đã xẩy ra? Những ý tưởngđược tạo ra bởi một trạng thái đặc biệt được diễn dịch sai lầm như nguyên nhân của chính trạng thái đó. Quả thực, chúng ta hành động tương tự như vậy khi chúng ta tỉnh thức. Phần lớn những cảm giác tổng quát của chúng ta - tất cả mọi loại câu thúc, dồn ép, căng thẳng, bột phát trong tác động hỗ tương của những giác quan, và đặc biệt hơn nữa trạng thái của nervus sympathicus [32] - kích động bản năng về nguyên nhân của chúng ta: chúng ta muốn có một lý do để được ở trong một trạng thái như thế như thế - để cảm thấy mạnh khoẻ hay đau yếu. Chẳng bao giờ chúng ta thoả mãn khi chỉ nghiệm thấy sự kiện chúng ta cảm thấy thế này hay thế nọ: chúng ta chỉ chấp nhận sự kiện - chúng ta chỉ ý thức về nó - khi nào chúng ta đã cung cấp cho nó một thứ nguyên nhân nào đó. - Ký ức, trong những trường hợp này, tự nhiên trở nên linh động một cách máy móc, mang gợi lại những trạng thái trước tương tự như vậy và những diễn giải - nguyên nhân liên kết với chúng, - chứkhông phải nguyên nhân của chúng. Chắc chắn sự tin tưởng rằng những ý tưởng, những tiến trình song hành của ý thức, là nguyên nhân, cũng do ký ức đem lại. Do đó nẩy ra thói quen về một cách diễn giải nguyên nhân nào đó, quả thực, ngăn trở và cấm đoán nữa, sự truy tìm nguyên nhân đích thực.
5.
Giải thích tâm lí sự kiện trên. - Lôi kéo một cái gì chưa biết về cái đã biết rồi, là trấn an tinh thần, làm tinh thần nhẹ nhõm, thoả mãn, ngoài ra còn tạo ra một cảm thức về sức mạnh. Cái chưa biết bao hàm sự nguy hiểm, bất an, lo âu - bản năng đầu tiên là diệt trừ những hoàn cảnh đau đớn này. Nguyên tác thứ nhất: bất cứ một giải thích nào đó cũng hơn là thiếu giải thích. Bởi vì tựu trung chỉ cần trừ khử những ý tưởng ghê sợ, người ta không cần lưu tâm tới những phương tiện dùng để trừ khử chúng: cái ý tưởng thứ nhất, nhờ nó, cái chưa biết tự chứng tỏ là cái biết rồi tạo ra một cảm giác thoải mái đến nỗi nó “được coi là đúng”. Chứng cứ khoái lạc (“sức mạnh”) như tiêu chuẩn của chân lí. - Vậy bản năng - nguyên nhân được điều kiện hoá và kích thích bởi cảm giác sợ hãi. Câu hỏi “tại sao?”, nếu có thể, không những cung cấp nguyên nhân cho chính nó, mà còn cả một thứ nguyên nhân nữa - một nguyên nhân trấn an, giải thoát và làm tinh thần nhẹ nhõm. Kết quả đầu tiên của nhu cầu này là một cái gì đã biết nay đã hoàn toàn kinh nghiệm và được ghi nhận trong kí ức, được đặt làm nguyên nhân. Cái mới lạ, cái chưa kinh nghiệm, cái xa lạ bị loại khỏi nguyên nhân. - Vậy thì người ta không tìm một giải thích về nguyên nhân mà là tìm một lối giải thích chọn lọc và được ưa chuộng, lối giải thích tiêu trừ nhanh chóng nhất và thường nhất cái cảm giác xa lạ, chưa kinh nghiệm - những lối giải thích thông thường nhất. - Hậu quả: một lối qui định nguyên nhân có khuynh hướng đi tới chỗ càng ngày càng chế ngự nhiều hơn nữa, trở thành tập trung trong một hệ thống và cuối cùng đi tới chỗ độc tôn nghĩa là loại trừ những nguyên nhân khác và những giải thích khác. Chủ ngân hàng nghĩ ngay tới “áp- phe”, tín đồ Kitô giáo nghĩ tới “tội lỗi”, thiếu nữ nghĩ tới “tình yêu” của mình.
6.
Toàn thể lãnh vực luân lí và tôn giáo thuộc về ý niệm “những nguyên nhân tưởng tượng đó”. - “Giải thích” về cảm giác khó chịu chung. Những cảm giác này tuỳ thuộc nơi những kẻ thù nghịch với chúng ta (những tinh thần tội lỗi: đó là trường hợp nổi tiếng nhất - những kẻ mắc bệnh ưu uất thần kinh bị hiểu lầm là phù thuỷ). Những cảm giác này tuỳ thuộc những hành động không thể thẩm định (cảm thức “tội lỗi”, “phạm tội” được gán cho một sự khó chịu thuộc về sinh lí - người ta luôn luôn tìm thấy lí do để bất mãn với chính mình). Những cảm giác này tùy thuộc sự trừng phạt, chuộc lại một việc gì mà chúng ta đã không được làm, một cái gì mà chúng ta đã không được là (ý tưởng được tổng hợp, dưới một hình thức trơ trẽn, thành một mệnh đề trong đó luân lí hiện ra đúng chân tướng của nó, nghĩa là như chất kịch độc và sự phỉ báng cuộc đời: “Tất cả mọi đau đớn, thuộc thể xác hay tinh thần, đều cho thấy chúng ta xứng đáng được, bởi nó không đến với chúng ta nếu chúng ta không xứng đáng nhận lãnh nó. (Thế giới như Ý Chí và Biểu Tượng II, 666). Những cảm giác này tùy thuộc những hành động bồng bột thiếu suy nghĩ có những hậu quả tai hại (- những đam mê, những giác quan bị coi như là nguyên nhân, như là phạm tội; những tai biến sinh lí trở thành hình phạt “xứng đáng” nhờ những tai biến khác). - “Giải thích” những cảm giác dễ chịu chung. Những cảm giác này tuỳ thuộc lòng tin tưởng vào Thượng Đế. Chúng cũng tuỳ thuộc ý thức về những hành động tốt (cái mà người ta gọi là “lương tâm yên ổn”, một trạng thái sinh lí đôi khi giống như một sự tiêu hoá tốt, như nó thường bị hiểu lầm như thế.) Chúng tuỳ thuộc kết quả thành công của một vài công việc nào đó (- Kết luận ngây thơ: kết quả thành công của một công việc không mang lại cho một người mắc bệnh ưu uất hay một Phascal bất cứ một cảm giác thú vị chung nào cả). Chúng có thể tuỳ thuộc đức tin, tình yêu và lòng hy vọng - những đức tính Kitô giáo. Trong thực tế, tất cả những cái tự nhận là giải thích này chỉ là những hậu quả của những trạng thái thú vị hay khó chịu nào đó và được di dịch sang một thổ ngữ sai lầm: một người ở trong trạng thái hi vọng bởi vì cảm giác sinh lí trỗi vượt hơn cả của con người hắn, một lần nữa lại mãnh liệt và đầy đủ; người ta tin tưởng vào Thượng Đế bởi vì cảm giác về sự tràn đầy và sức mạnh mang lại cho tâm trí hắn sự nghỉ ngơi. - Luân lý và tôn giáo hoàn toàn thuộc về tâm lí học về lầm lẫn; trong bất kì trường hợp đặc thù nào nguyên nhân cũng bị lầm lẫn với hậu quả hoặc chân lí với hậu quả của cái mà người ta coi như chân lí; hay hơn nữa, một trạng thái của ý thức với một chuỗi nguyên nhân gây ra trạng thái này. -
7.
Sự sai lầm của tự do ý chí. - Ngày nay chúng ta không còn chút thiện cảm nào đối với khái niệm về “tự do ý chí” nữa: chúng ta biết nó quá rõ - cái xảo thuật thần học khả ố nhất trần đời của những nhà thần học để khiến cho nhân loại “có trách nhiệm” theo kiểu những nhà thần học, nghĩa là: làm cho nhân loại tuỳ thuộc vào những nhà thần học… Ở đây tôi chỉ nêu ra tâm lí của khuynh hướng làm con người có trách nhiệm này. - Ở bất cứ nơi nào mà người ta tìm kiếm trách nhiệm thì thường là bản năngtrừng phạt và kết án bắt tay vào việc tìm kiếm. Biến dịch bị tước đoạt mất sự hồn nhiên vô tội khi người ta đưa bất cứ một trạng thái nào về ý chí, ý định, về những hành động có trách nhiệm: lí thuyết ý chí được tạo ra chủ yếu nhằm mục đích trừng phạt, nghĩa là với ý định vạch tội. Toàn thể tâm lí học cổ điển, tâm lí học chủ ý chí bắt nguồn từ sự kiện những người tạo ra nó, những tu sĩ đứng đầu những tập thể cổ xưa, muốn tạo ra quyền ra hình phạt - hay đúng hơn họ muốn tạo ra quyền đó cho Thượng Đế… Con người được coi là “tự do” để có thể bị kết án và trừng phạt, - để có thể có tội: do đó tất cả mọi hành động đều phải coi như do ý muốn, nguồn gốc của tất cả mọi hành động như nằm trong ý thức (- do đó sự giả mạo căn bản nhất in psychologicis được đặt làm nguyên tắc của chính tâm lí học)… Ngày nay khi chúng ta đi vào hướng ngược lại, khi chúng ta, những kẻ vô luân, cố gắng tìm kiếm loại khỏi thế giới những khái niệm về tội lỗi và hình phạt, cũng như tẩy sạch tâm lí học, lịch sử, thiên nhiên, những cơ cấu và luật lệ xã hội, chúng ta nhận thấy chúng ta không có đối thủ nào triệt để hơn những nhà thần học, những kẻ tiếp tục làm ung độc sự hồn nhiên của biến dịch với “tội lỗi” và “hình phạt” bằng khái niệm về “trật tự luân lí”. Kitô giáo là siêu hình học của đao phủ…
8.
Lí thuyết duy nhất của chúng ta có thể là gì? - Là không một ai có thể cho con người những đặc tính của nó, ngay cả Thượng Đế, xã hội, cha mẹ và tổ tiên, ngay cảchính hắn nữa (- ý tưởng phi lí cuối cùng bị bác bỏ ở đây, đã được giảng dạy như “tự do minh nhiên” của Kant và có thể bởi Platon trước nữa). Không một ai chịu trách nhiệm bởi sự kiện hắn hiện hữu, hay được cấu tạo như con người hiện tại của hắn, hoặc sống trong những hoàn cảnh và môi trường trong đó hắn đang sống cả. Định mệnh của bản chất hắn không thể tách khỏi định mệnh của tất cả những cái đã là và sẽ là. Hắn không phải là kết quả của một ý hướng cá biệt, một ý chí, một mục đích nào, hắn không phải là một sự thí nghiệm để đạt tới một “con người lí tưởng” hay một “hạnh phúc lí tưởng” hoặc một “đạo đức lí tưởng” thật là phi lí khi muốn láibản chất hắn về bất cứ mục tiêu nào khác. Chúng ta đã tạo ra ý tưởng về mục đích: trong thực tế không có “mục đích”… Con người vốn thiết yếu, con người là một mảnh định mệnh, con người thuộc toàn thể, con người ở trong toàn thể - không có gì có thể phán đoán, đo lường, so sánh, lên án cuộc hiện hữu của chúng ta…Nhưng không có gì bên ngoài toàn thể! - Không một ai còn có trách nhiệm nữa, loại hạng của hữu thể không thể đưa về causa prima [33] được nữa, thế giới là một nhất thể không phải như thế giới khả giác cũng không phải như tinh thần duy có điều này là sự giải thoát tối thượng - duy bởi đó sự hồn nhiên của Biến dịch được khôi phục lại… Ý tưởng về “Thượng Đế” cho tới bây giờ là một vấn nạn lớn lao nhất đối với cuộc đời… Chúng ta khước từ Thượng Đế, chúng ta khước từ trách nhiệm nơi Thượng Đế: chỉ bằng cách đó thôi chúng ta mới cứu vớt được thế giới.
[1]Từ quan điểm vĩnh cửu - Ghi chú của Dịch giả.
[2]Sein, Pêtre, Being
[3]Schein, Apparence, apparence. - G.c.D.
[4]Pháp văn trong nguyên bản: định kiến
[5]Héraclite là triết gia tiền-Socrate duy nhất tin vào Biến Dịch, vào hiển thể và những gì giác quan chứng nghiệm. - G.c.D.
[6]Nguyên nhân của chính nó.
[7]Hữu thể chân thực nhất. - G.c.D.
[8]Täter und Tun - G.c.D.
[9]Ich-Subsstanz.
[10]Vernunft Kategorien. “Phạm trù” (Kategoric) ở đây chỉ có nghĩa là phương tiện, không mang một âm hưởng nào “Phạm trù” của Kant cả - G.c.D.
[11]“wahres Sein”
[12]Nicht-Sein
[13]Hay hư vô, Nicht
[14]Danh từ Phật giáo: Sắc giới - G.c.D.
[15]Wahrheit = chân lí, tương đương với wahre Wet = thế giới chân thực.
[16]Nietzsche muốn nói tới Kant và tỉnh Königsberg, miền bắc nước Đức, nơi Kant sống và chết. - G.c.D.
[17]NƠI ĐÂY BẮT ĐẦU ZARATHUSTRA (Và bắt đầu triết lí Nietzsche) - G.c.D.
[18]Pháp văn trong nguyên bản: “Phải giết chết những đam mê”. - G.c.D.
[19]Dòng Trappe, dòng luyện tâm, nổi tiếng vì kỷ luật khắt khe. - G.c.D.
[20]Instinkte des Lebens, Thoát ra ngoài sự câu thúc của ngôn ngữ, “Instinkte des Lebens”, ở đây còn có thể hiểu như “khuynh hướng về đời sống”. Trái với tất cả những nền luân lí khác đàn áp cuộc sống, đầy những cấm kỵ, hướng về điều “thiện” như một cứu cánh tuyệt đối, đức lý lành mạnh theo Nietzsche nhằm xiển dương cuộc đời, kích thích bản năng sinh động, hướng về một cuộc sống giải thoát, nguy hiểm, mãnh liệt. Tư tưởng sau có thể nói lên chủ trương của tất cả những nền đức lý lành mạnh (gesunde Moral) ấy: “Tất cả những gì sống đều thiêng liêng.” (everything that lives is holy - William Blake, America) và Cuộc sống đích thực của những giác quan và xác thịt tôi siêu thăng những giác quan và xác thịt tôi” (the real life of my senses and flesh transcending my senses and flesh - Walt Whitman, Leaves of Grass) - G.c.D.
[21]das Leben selbst zwingt uns, Werte anzusetzen; das Leben selbst wertet durch uns, wenn wir Werte ansetzen…
[22]Lời của Pilate khi rửa tay trao Jésus Christ do dân Do Thái “Ecce homo” có nghĩa là: “”Đây là con người đó!” hay “Hãy nhìn người này!” (Saint Jean, XIX, 5) - G.c.D.
[23]Ở đây chúng ta không thể không nhắc tới Spinoza, một trong những triết gia mà Nietzsche coi như tiền bối của mình, với chủ trương đón nhận tìm hiểu và không bao giờ lên án con người tương tự: “Seduce curavi, humanas actiones non redere non lugere neque detestari, sed intelligere”,Tractatus politieus (1677) ch. 1, 4. “Tôi đã cố gắng một cách thận trọng để không chế giễu hay thương hại hoặc ghê tởm những hành vi con người, mà chỉ để thấu hiểu chúng” - G.c.D.
[24]Wir verneinen nicht leicht, wir suchen unsre Ehre darin, Bejahende zu sein. Tất cả định tắc luân lí của Nietzsche nằm trong một chữ “Ừ” hoặc “Phải” hay “Vâng” (Yea) trước cuộc đời, trước tất cả những nguồn vui, trước tất cả khổ đâu, trước tất cả dâu biển tang tương thê thảm và khủng khiếp của cuộc đời. Con người lí tưởng của Nietzsche khẳng định giống như những nhân vật bi tráng trong bi kịch Hy Lạp sau khi đã trải qua tất cả khảm kha bất bình: “Tất cả đều tốt lành.” (Tout est bien) - G.c.D.
[25]Pháp văn: Phép ăn uống kiêng cữ.
[26]Hãy tin kẻ đã thí nghiệm!
[27]In Formel: seine Tugend ist die Folge seines Glücks… - G.c.D.
[28]Hạng người “thời đại” Nietzsche khinh bỉ - G.c.D.
[29]Alles Gute ist Instinkt.
[30]Việc trước, tiền sự của một sự việc hay sự kiện gì. - G.c.D.
[31]Phần xấu xa đáng xấu hổ. - G.c.D.
[32]Thần kinh giao cảm. - G.c.D.
[33]Nguyên nhân đệ nhất. - G.c.D
1.
Bạn hỏi tôi tất cả đặc chất nơi những triết gia là gì?... Chẳng hạn sự thiếu cảm thức lịch sử của họ, sự thù ghét ý tưởng về Biến Dịch của họ, chủ trương tồn cổ kiểu Ai Cập của họ. Họ tưởng họ làm vẻ vang một sự việc khi họ tước bỏ khía cạnh lịch sử của nó, sub specie aeterni [1] ,- khi họ biến nó thành một xác ướp. Tất cả những ý tưởng mà những triết gia mân mê hàng năm chỉ là những ý tưởng xác ướp; không có gì thực thoát ra khỏi bàn tay họ mà còn sinh động. Họ giết, họ lột da, nhồi trấu khi họ tôn sùng, những vị sùng bái ý tưởng này, - họ trở thành một hiểm họa chết chóc cho tất cả mọi sự khi họ tôn sùng. Chết chóc, thay đổi, tuổi tác, cũng như sinh sản và trưởng thành đối với họ đều là những dị luận - những bác luận nữa. Cái đang hiện hữu không biến dịch; cái biến dịch không hiện hữu… Bây giờ họ hoàn toàn tin, tới độ tuyệt vọng nữa, vào Hữu Thể [2] . Nhưng vì họ không thể nắm được nó, họ tìm kiếm lí do tại sao họ bị ngăn trở không đạt tới. Phải có một Hiển Thể [3] , một sự lừa gạt, ngăn cản không cho chúng ta tri giác Hữu Thể: kẻ lừa gạt ở đâu?” - “Chúng ta nắm được nó rồi”, họ sung sướng kêu lên; “đó là nhục cảm. Những giác quan này, đồng thời cũng rất vô luân, chính chúng lừa gạt chúng ta về thế giới chân thực. Luân lí: thoát ra khỏi sự lừa gạt của giác quan, khỏi biến dịch, khỏi lịch sử: lịch sử không là gì khác hơn sự tin tưởng vào giác quan, tin tưởng vào dối trái. Luân lí: khước từ tất cả những kẻ tin vào giác quan, khước từ toàn thể nhân loại: tất cả những kẻ đó đều thuộc về “quần chúng”. Là một triết gia, là một xác ướp, trình bầy thuyết monotonothéisme bằng cách bắt chước điệu bộ của phu đào huyệt! - Và trên hết, tẩy chay thân xác, cái idée fixe [4] đáng thương của những giác quan! Nhiễm đầy khuyết điểm của luận lí, bị bác bỏ, bất khả nữa, dù khá trơ trẽn khi cư xử như thể nó có thật…”
2.
Với một niềm kính cẩn vô biên, tôi đặt riêng tên tuổi Héraclite [5] sang một bên. Nếu tất cả bọn triết gia khước từ chứng cớ minh bạch của những giác quan bởi chúng cho thấy phức tính và biến chuyển, thì ông cũng khước từ chứng cứ minh bạch của bọn họ vì họ trình bày sự vật như thể chúng có trường cửu tính và nhất tính. Ngay cả Héraclite cũng bất công với những giác quan. Giác quan không lừa dối theo cách những triết gia trường phái Éléates tưởng, cũng không như ông tưởng - chúng không lừa dối bao giờ cả - Chính điều ta tạo nên từ chứng cớ minh bạch của chúng là cái đầu tiên du nhập sự dối trá vào; chẳng hạn sự dối trá của nhất thể, sự dối trá của thực tại, của bản thể, của trường cửu… Lí trí chính là nguyên do của sự xuyên tạc chứng cớ minh bạch của giác quan. Chừng nào mà giác quan chỉ sự biến dịch, sự chuyển biến, sự đổi thay, chúng không dối trá… Nhưng Héraclite sẽ mãi mãi đúng khi tuyên bố rằng Hữu Thể chỉ là một ảo tưởng rỗng tuếch. Thế giới “hiển lộ bề ngoài” là thế giới duy nhất: thế giới “chân thực” chỉ là do sự dối trá thêm vào…
3.
Và những giác quan của chúng ta là những dụng cụ quan sát tinh xảo biết bao! Cái mũi chẳng hạn, mà không triết gia nào không từng cung kính và biết ơn khi nói tới, ngay như cái mũi tạm thời là dụng cụ tế nhị nhất thuộc quyền sử dụng của chúng ta: dụng cụ này có thể ghi nhận những sự sai biệt nhỏ nhặt nhất trong sự vận chuyển, mà ngay cả kiếng quang phổ cũng không thể ghi nhận được. Ngày nay chúng ta có khoa học tới chừng độ nào mà chúng ta quyết định chấp nhận chứng cớ minh bạch của những giác quan,- tới chừng độ mà chúng ta làm bén nhọn và võ trang những giác quan, học suy tưởng chúng tới cùng. Còn lại là sự sẩy non chứ chưa phải là khoa học nữa: nghĩa là siêu hình học, thần học, tâm lý học hay nhận thức luận. Hay khoa học hình thức, lí thuyết về biểu tượng: như luận lí và luận lí học ứng dụng, toán học. Trong tất cả những khoa học này thực tại không hề lộ diện, dù như một vấn đề; cũng hiếm hoi như câu hỏi một hệ thống kí hiệu quy ước như luận lí có giá trị gì vậy.
4.
Đặc chất khác của các triết gia cũng không kém phần nguy hiểm: nó hệ tại việc lẫn lộn cái cuối cùng với cái đầu tiên. Họ đặt cái đến sau cùng - bất hạnh thay! bởi nó không bao giờ được đến! - những “khái niệm cao nhất”, nghĩa là những khái niệm đại cương nhất và rỗng tuếch nhất, đám khói cuối cùng của thực tại bốc hơi, lên đầu và như cái khởi đầu. Một lần nữa đây lại là cách duy nhất biểu lộ lòng sùng kính của họ: cái cao cả nhất không được phép nẩy sinh từ cái thấp nhất, không bao giờ được phép nẩy sinh… Luân lí: tất cả những gì thuộc thượng đẳng phải là causa sui [6] . Bắt nguồn từ một căn nguyên khác bị coi như một vấn nạn, như đáng hồ nghi về giá trị. Tất cả mọi giá trị siêu đẳng phải thuộc thượng đẳng, tất cả mọi khái niệm siêu đẳng như hữu thể, tuyệt đối, chân, thiện, hoàn hảo - tất cả đều không thể “trở thành” do đó phải là causa sui. Nhưng những khái niệm siêu đẳng này cũng không thể bất tương xứng với nhau… Vì lẽ đó họ đi tới khái niệm kì dị của họ về “Thượng đế”… Cái cuối cùng, cái mong manh nhất, trống rỗng nhất được đặt lên đầu, như nguyên nhân của chính nó, như ens realisimum [7] … Nhân loại phải coi trọng những bệnh tưởng đau màng óc của những tên dệt mạng nhện bệnh hoạn này! - Và nhân loại còn phải trả giá rất đắt vì đã làm vậy!...
5.
Để kết luận, chúng ta hãy thiết định đường lối khác biệt trong đó chúng ta (- tôi nói “chúng ta” vì lịch sự…) quan niệm vấn đề sai lầm và hiển thể. Trước kia người ta thường coi sự thay đổi, đột biến là bằng chứng của hiển thể như một dấu hiệu của sự hiện diện của một cái gì đó phải có ở đó để dẫn dắt chúng ta vào chỗ lầm lạc. Ngày nay ngược lại, chúng ta thấy rõ rằng chừng nào mà lí trí bắt buộc chúng ta phải qui định nhất tính, sự trường cửu, thực thể, nguyên do, thực tại, hữu thể là một cách nào đó chúng ta bị vướng mắc vào sai lầm, cần phải sai lầm; dù chúng ta chắc chắn thế nào, căn cứ trên sự kiểm chứng gắt gao, thì sự sai lầm vẫn có ở đó. Ở đây cũng chẳng khác gì sự vận hành của mặt trời: trong trường hợp kia sự sai lầm có con mắt của chúng ta làm nhân chứng, trong trường hợp này có ngôn ngữ của chúng ta không ngớt biện hộ. Trong căn nguyên của nó, ngôn ngữ thuộc về thời đại của những hình thức sơ khai nhất của tâm lí học: chúng ta sẽ thấy mình ở giữa lòng sự sùng bái vật thần thô thiển nếu chúng ta triệu hồi những điều kiện cơ bản của khoa siêu hình học của ngôn ngữ, nghĩa là của lí trí, tới trước ý thức. Khắp nơi nó chỉ thấy tác nhân và tác động [8] : nó tin vào ý chí như nguyên nhân tổng quát; nó tin vào “tự ngã”, tin vào tự ngã như hữu thể, tin vào tự ngã như thực thể và nóphóng chiếu lòng tin tưởng vào tự ngã-thực thể [9] của nó lên tất cả mọi sự vật - chỉ bằng cách đó nó mới sáng tạo ra khái niệm “sự vật”… Khắp nơi hữu thể được quan niệm, tiếp dẫn vào, như là nguyên nhân; chính từ khái niệm về “ngã” mới tiếp nối, nẩy sinh ra khái niệm về “hữu thể”… Thoạt kì thuỷ, là sự sai lầm tai hại lớn lao cho rằng ý chí là một cái gì tác động, rằng ý chí là một năng lực… Ngày nay chúng ta biết rằng đó chỉ là một danh từ không hơn không kém… Rất lâu sau, trong một thế giới trăm ngàn lần sáng lạn hơn, sự chắc chắn, sự xác tín chủ quan, trong sự sử dụng những phạm trù của lí trí [10] đột nhiên đến với ý thức của những triết gia: họ kết luận rằng chúng không thể đến từ kinh nghiệm, - vì quả thực tất cả những gì thuộc kinh nghiệm đều không thích hợp với chúng. Vậy thì chúng bắt nguồn từ đâu?Ở Ấn Độ, cũng như ở Hy Lạp, người ta đều mắc chung một lỗi lầm này: “Ngày xưa chắc chắn chúng ta phải ở trong một thế giới cao siêu hơn (- thay vì nói trong một thế giới hạ đẳng hơn rất nhiều, điều đó mới đúng!) - “chắc chắn chúng ta phải thần thánh lắm, bởi vì chúng ta có lí trí!”… Từ trước tới nay không có gì có sức thuyết phục ngây thơ hơn sự sai lầm về hữu thể, như nó được hình thành bởi những triết gia thuộc trường Éléate chẳng hạn: vì mỗi chữ, mỗi câu chúng ta thốt ra đều nói lên vì nó! - Ngay cả những đối thủ của trường Éléate cũng chịu cái ảnh hưởng quyến rũ của khái niệm về hữu thể của họ: trong số những người đó có Démocrite, khi ông phát kiến ra nguyên tử… “Lí trí” trong ngôn ngữ: Ôi! thật là một con mụ lường gạt đáo để! Tôi sợ rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi Thượng Đế vì chúng ta hãy còn tin vào văn phạm…
6.
Người ta sẽ cảm ơn tôi nếu tôi cô đọng một sự sáng suốt vô cùng mới mẻ và quan trọng vào bốn luận đề: bằng cách này tôi sẽ khiến nó dễ hiểu hơn, bằng cách này tôi sẽ khơi ra sự mâu thuẫn.
Mệnh đề thứ nhất: Những lí do khiến thế giới “này” được coi như một thế giới của hiển thể, chính là những lí do chứng minh thực tại của nó, - một thực tại khác tuyệt đối không thể chứng minh được.
Mệnh đề thứ hai: Những đặc tính người ta gán cho “hữu thể chân thực” [11] của sự vật thẩy đều là những đặc tính của vô thể [12] của hư thể [13] - “thế giới chân thực” được xây dựng bằng cái mâu thuẫn của thế giới đích thực: quả thực thế giới hiển lộ [14] nếu được nhìn như thế, thì nó chỉ là một ảo tưởng thị giác luân lí.
Mệnh đề thứ ba: Nói về một thế giới “khác” thế giới này là điều hoàn toàn vô nghĩa, miễn là chúng ta không có một bản năng mãnh liệt buộc chúng ta phỉ báng, dèm pha và lên án cuộc đời này: trong trường hợp sau chúng ta trả thù cuộc đời bằng sự lạm dụng ảo tưởng về một cuộc đời “khác”, một “cuộc đời tốt đẹp hơn”.
Mệnh đề thứ tư: Chia thế giới ra làm một thế giới “thực” và một thế giới “hiển lộ” hoặc theo lối của Kitô giáo hay lối của Kant (sau rốt, cũng chỉ là một tín đồ Kitô xảo quyệt) thì cũng chỉ là một dấu hiệu của sự décadence - một triệu chứng của cuộc sống sa đoạ. Sự kiện người nghệ sĩ đặt hiển thể lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “hiển thể” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa nhưng mà dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai… Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm, - hắn chính là kẻ khẳng định tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp trong cuộc đời, hắn là một kẻ theo Dionysos.
“Thế giới chân thực” cuối cùng trở thành một huyền thoại như thế nào
Lịch sử một lầm lẫn
1.
Thế giới chân thực, rộng mở cho hiền nhân, kẻ mộ đạo, người đức hạnh - hắn sống trong đó, hắn là thế giới đó.
(Hình thức tư tưởng cổ điển nhất, khá dễ hiểu, đơn giản, hùng hồn. Uyển-khúc-pháp của mệnh đề: “Ta, Platon, ta là chân lí.”) [15]
2.
Thế giới chân thực, khép kín với giây phút, nhưng hứa hẹn với hiền nhân, kẻ mộ đạo, người đức hạnh (“với kẻ tội đồ ăn năn”).
(Sự tiến bộ của tư tưởng: nó trở nên tế nhị hơn, phỉnh gạt hơn, khúc mắc hơn, - nó trở thành đàn bà, nó trở thành tín đồ Kitô giáo…)
3.
Thế giới chân thực, khép kín, không thể chứng minh, không thể hứa hẹn, nhưng, dù chỉ mơ tưởng, là một an ủi, một mệnh lệnh.
(Vẫn là mặt trời xưa cũ, nhưng mờ tối vì sương mù và hồ nghi; ý tưởng trở nên xanh xao, thuộc về miền bắc, của người ở Königsberg [16] )
4.
Thế giới chân thực, khép kín? Khép kín trong bất cứ trường hợp nào. Và vì khép kín nên cũng bất khả tri. Vì lẽ đó nó cũng không an ủi, không cứu rỗi, không bổn phận: làm thế nào một bất khả tri có thể buộc chúng ta một điều gì đó?
(Sớm mai xám. Những cái ngáp dài đầu tiên của lí trí. Tiếng gà gáy của thuyết duy nghiệm).
5.
Thế giới “chân thực” - một ý tưởng vô dụng, không có ý nghĩa ngay cả như một bổn phận nữa - một ý tưởng đã trở nên vô tích sự, dư thừa, do đó, một ý tưởng bị bác bỏ: chúng ta hãy tiêu diệt nó đi!
(Ngày sáng lạn; bữa điểm tâm đầu tiên; sự trở về của bon sens và vui tươi; Platon đỏ mặt vì mắc cỡ; tất cả mọi tinh thần tự do gây huyên náo dữ dội.)
6.
“Thế giới chân thực”, chúng ta đã tiêu diệt rồi: còn lại thế giới nào? Có lẽ thế giới hiển lộ chăng?... Nhưng không! Với thế giới chân thực chúng ta đã tiêu diệt thế giới của những hiển thể!
(Giữa ngọ: khoảnh khắc bóng tối ngắn ngủi nhất: chung cục của sự sai lầm lâu dài nhất; cực điểm của nhân loại; INICIPIT ZARATHUSTRA.) [17]
Luân lí như một cái gì phản tự nhiên
1.
Tất cả mọi đam mê đều có một thời trong đó chúng chỉ là tai hoạ, trong đó chúng dìm những nạn nhân dưới sức nặng của sự điên cuồng của chúng, - và một thời kế tiếp, rất lâu sau trong đó, chúng kết hợp với tinh thần, trong đó chúng tự “tinh thần hoá”. Ngày xưa, vì sự điên cuồng trong đam mê, người ta đã gây chiến với chính đam mê: người ta âm mưu tiêu diệt nó, - tất cả mọi quái vật luân lí cổ điển đều đồng tâm nhất trí với nhau về điểm này: “il faut tuer les passions” [18] . Định thức lừng danh nhất cho việc này nằm trong Tân Ước, đoạn Bài Giảng trên Núi, nơi, xin nói qua, những sự vật không hề được nhìn từ một đỉnh cao. Chẳng hạn nói về dục tình: “Nếu con mắt các ngươi lăng nhục các ngươi, hãy móc mắt ra.”: may mắn thay không tín đồ Kitô giáo nào theo lời khuyên này. Tiêu diệt những đam mê và khát vọng chỉ vì sự điên cuồng của chúng, và để ngăn ngừa những hậu quả tai hại của chúng - dường như đối với chúng ta ngày nay chỉ là một hình thức bén nhọn của điên cuồng. Chúng ta không còn thán phục những nghệ sĩ chuyên nhổ răng để chúng không làm đau được nữa… Đằng khác có thể công bình chấp nhận rằng, trên lãnh vực mà Kitô giáo tăng trưởng, ý tưởng về sự “tinh thần hoá đam mê” không thể quan niệm được. Bởi Giáo Hội nguyên thuỷ, như mọi người đều biết, chống lại những kẻ “thông minh” vì lợi ích của những kẻ “nghèo khó trong tinh thần”, làm sao người ta có thể trông đợi nó một cuộc chiến thông minh chống lại đam mê được? Giáo Hội đánh phá những đam mê bằng cách làm cỏ tận rễ, biện pháp cách “chữa trị” của Giáo Hội là thiến. Giáo Hội không bao giờ hỏi: “Làm thế nào người ta có thể tinh thần hoá, tô điểm, thần thánh hoá một dục vọng?”- Giáo Hội luôn đặt nặng kỷ luật của mình lên sự tuyệt diệt (dục vọng, lòng kiêu căng, tham vọng quyền lực, biển lận, thù hận) - Nhưng tấn công đam mê tận gốc rễ của nó có nghĩa là tấn công cuộc đời tận gốc rễ của nó vậy: biện pháp của Giáo Hội thù nghịch với cuộc đời…
2.
Cũng phương thuốc đó: sự thiến và diệt dục đó, được chọn dùng một cách tự nhiên theo bản năng trong cuộc chiến đấu chống lại dục vọng bởi những ý chí quá yếu đuối, quá sa đoạ để có thể cưỡng bách dục vọng đó phải chấp nhận một giới hạn; bởi những bản chất cần la Trappe [19] , nói một cách ẩn dụ (và không hình ảnh), một sự khai chiến quyết liệt của lòng cừu hận, một vực thẳm ngăn cách giữa họ và đam mê. Chính những kẻ sa đoạ mới thấy những phương tiện triệt để là tối cần thiết; sự yếu đuối của ý chí, rõ rệt hơn sự bất lực không thể phản ứng chống lại một sự kích thích, chính nó mới là một hình ảnh của sa đoạ. Lòng cừu hận triệt để, sự căm thù không đội trời chung đối với nhục cảm luôn luôn là một triệu chứng trầm trọng cần phải xét lại; người ta có quyền đặt những giả thiết về tình trạng chung của một kẻ cực đoan về phương diện này. - Tuy nhiên, lòng cừu hận, sự căm thù này chỉ lên tới cao độ khi những bản chất này không còn đủ quả cảm ngay cả cho sự chữa trị tận gốc rễ, cho sự khước từ “ma quỷ” của họ. Thử nhìn lướt qua toàn thể lịch sử những tu sĩ và những triết gia, kể cả những nghệ sĩ nữa: những lời nói hiểm độc nhất nhằm chống lại giác quan không xuất phát từ những kẻ bất lực cũng chẳng từ những kẻ khổ hạnh, mà là từ những kẻ thấy mình không thể trở nên khổ hạnh, vì những kẻ cần trở nên khổ hạnh…
3.
Sự tinh thần hoá nhục cảm được gọi là tình yêu: đó là một chiến thắng lớn lao trên Kitô giáo. Một chiến thắng khác nữa là sự tinh thần hoá lòng cừu hận của chúng ta. Nó hệ tại sự thấu hiểu sâu xa giá trị của việc có kẻ thù: tóm lại, hệ tại sự hành động và suy tưởng ngược lại đường lối người ta hành động và suy tưởng ngày xưa. Giáo Hội bao giờ cũng chỉ muốn tiêu diệt kẻ thù: chúng ta, những kẻ vô luân và chống Kitô giáo, chúng ta thấy rằng Giáo Hội tồn tại là điều ích lợi cho chúng ta… Trong chính trị cũng vậy, lòng cừu hận đã trở nên tinh thần hơn - thận trọng hơn, chín chắn hơn, an hoà hơn rất nhiều. Hầu hết mọi đảng đối lập của họ không đi đến chỗ suy yếu là điều có lợi cho chính sự tự bảo tồn của họ; sự kiện này đúng cả trong trường hợp đại chính trị. Một sự sáng tạo mới, một Đế quốc chẳng hạn, cần thù hơn cần bạn: chỉ khi đối chọi, nó mới tự cảm thấy cần thiết, chỉ khi đối chọi, nó mới trở nên cần thiết… Chúng ta chấp nhận một thái độ tương tự đối với kẻ “nội thù”: ở đó chúng ta cũng tinh thần hoá cừu hận, ở đó chúng ta mới hiểu giá trị của nó. Người ta chỉ phong phú với điều kiện phải trả giá bằng cách có nhiều mâu thuẫn; người ta chỉ trẻ với điều kiện tâm hồn không nghỉ ngơi, tâm hồn không khát khao yên ổn. Không có gì xa lạ với chúng ta hơn cái khát vọng “thanh bình của tâm hồn” ngày xưa, khát vọng của người Kitô; không có gì khơi dậy trong lòng chúng ta ít thèm muốn cho bằng con bò cái luân lí và sự thoả mãn mập ú của lương tâm yên ổn… Người ta đã khước từ cuộc đời vĩ đại khi người ta khước từ chiến tranh… Quả thực, trong nhiều trường hợp, sự “thanh bình của tâm hồn” chỉ là một điều ngộ nhận, - nó là một cái gì khác không biết làm thế nào tự cho mình một cái danh xưng lương thiện hơn. Không quanh co và không thành kiến, đây là một vài trường hợp. Chẳng hạn sự “thanh thản của tinh thần” có thể là sự phát quang êm dịu của một thú tính phong phú vào trong lãnh vực luân lí (hay tôn giáo). Hay có thể là sự bắt đầu của mỏi mệt, bóng tối đầu tiên mà buổi chiều, tất cả mọi thứ chiều, toả ra. Hay có thể là một dấu hiệu chỉ rằng không khí ẩm ướt, rằng gió nồm sắp thổi. Hay có thể là lòng cám ơn miễn cưỡng đối với một sự tiêu hoá tốt đẹp (đôi khi còn có tên là tình thương nhân loại). Hay có thể là sự tĩnh lặng tạm thời của người mới khỏi bệnh thấy tất cả mọi sự vật đều có một hương vị mới và chờ đợi… Hay có thể là trạng thái tiếp theo sau một sự thoả mãn mãnh liệt của nỗi đam mê mạnh nhất của chúng ta, cảm giác thích thú của một sự no đầy hiếm có. Hay có thể là sự suy nhược của ý chí chúng ta, của những ước vọng của chúng ta, của những tật xấu của chúng ta. Hay có thể là sự lười biếng, bị thuyết phục bởi lòng phù phiếm, tự trang điểm bằng luân lí. Hay có thể là sự xuất hiện của một niềm xác tín khủng khiếp, sau sự căng thẳng kéo dài và sự dày vò của hồ nghi. Hay có thể là sự biểu lộ của trưởng thành và tự chủ, giữa hành động, sự sáng tạo, cố gắng, ước muốn, một hơi thở lặng lẽ khi sự “tự do của ý chí”đã đạt tới… Hoàng Hôn của những thần tượng: Ai biết? Hay đó cũng có thể là một thứ “thanh bình của tâm hồn” mà thôi…
4.
Tôi đặt một nguyên tắc thành định thức. Tất cả mọi chủ trương duy nhiên trong luân lí, nghĩa là tất cả luân lí lành mạnh, đều bị chế ngự bởi bản năng sống [20] ,- một giới luật của cuộc sống nào đó, được làm tròn qua một qui luật “Phải” và “Không được”, một sự ngăn cấm hay một sự cừu hận nào đó trên đường đời, như thế đều bị gạt qua một bên. Luân lí phản tự nhiên, nghĩa là tất cả nền luân lí từ xưa tới nay đã được giảng dạy, tôn kính và thuyết giáo, ngược lại, chắc chắn nhằm chống lại những bản năng sống, nó là một sự lên án những bản năng này, khi thì bí mật, khi thì ồn ào và trơ trẽn. Khi nói rằng: “Thượng Đế nhìn thấu suốt con tim”, nó đã khước từ những ước vọng sâu xa nhất và cao viễn nhất của cuộc sống và coi Thượng Đế như kẻ thù của cuộc đời… Bậc Thánh mà Thượng Đế hài lòng là một kẻ bị thiến lí tưởng… Cuộc đời chấm dứt ở nơi mà “nước Chúa” bắt đầu…
5.
Khi người ta đã hiểu sự phạm thượng trong một cuộc đời loạn chống lại cuộc đời như thế này, như nó đã trở thành cực kỳ tôn nghiêm trong luân lí Kitô giáo, chính nhờ điều đó người ta sẽ may mắn hiểu được thêm một vài điều khác nữa: đó là sự vô ích, mê vọng hão huyền, phi lí, dối trá của một sự nổi loạn như vậy. Vì một sự lên án cuộc đời bởi một kẻ đang sống cuối cùng chỉ là triệu chứng của một lối sống xác định nào đó: vấn đề sự lên án này đúng hay không đúng không hề được đặt ra. Người ta phải đặt mình ở bên ngoài cuộc đời, và mặt khác phải hiểu biết thấu suốt cuộc đời như bất kỳ, như đa số, như tất cả mọi người đã cảm nghiệm nó, mới được phép đụng chạm tới vấn đề giá trị của cuộc đời: đó là những lý do túc lí để thấy rằng vấn đề này là một vấn đề ở ngoài tầm đối với chúng ta. Khi chúng ta nói về giá trị, chúng ta không nói vì cảm hứng và từ lăng kính của cuộc đời: chính cuộc đời buộc chúng ta phải thiết định những giá trị; chính cuộc đời đã đánh giá trị qua chúng ta khi chúng ta thiết định những giá trị [21] … Do đó tất cả mọi luân lí phản tự nhiên coi Thượng Đế như khái niệm mâu thuẫn và lên án cuộc đời, thực ra đầu chỉ là một sự đánh giá giá trị cuộc đời, - cuộc đời nào? Thứ cuộc đời nào? - Nhưng tôi đã trả lời rồi: cuộc đời xuống dốc, suy nhược, mệt mỏi, bị lên án - Luân lí, như được hiểu từ xưa tới nay - như cuối cùng được thiết định thành định thức bởi Schopenhauer, như là sự “khước từ ý chí sinh tồn” - thứ luân lí này chính là bản năng suy đồi, tự biến thành một mệnh lệnh: nó nói: “Hãy diệt vong đi!” - đó là sự phán xét của những kẻ bị phán xét…
6.
Sau cùng chúng ta hãy thử xem người ta ngây thơ đến chừng nào khi nói rằng: “Người ta phải thế này thế nọ!” Thực tế cho chúng ta thấy biết bao mẫu người kì lạ, biết bao sai biệt và biến đổi trong hình thức; thế mà nhà luân lí lười biếng đã đi rêu rao: “Không, con người bắt buộc phải khác”?... Hắn còn biết con người bắt buộc phải khác như thế nào nữa, kẻ cuồng tín đáng thương này, hắn tự vẽ chân dung hắn lên tường và nói: “ecce homo!” [22] … Nhưng ngay cả khi nhà luân lí quay sang nói riêng một mình với cá nhân: “Bạn phải giống như thế này!”, hắn vẫn không ngừng khiến mình trở thành lố bịch. Cá nhân, trong quá khứ và trong hiện tại, là một mảnh định mệnh, một luật lệ thêm nữa, một thiết yếu thêm nữa cho tất cả những gì biển hiện và tất cả những gì sắp tới. Nói với nó: “Bạn hãy thay đổi bạn đi!” có nghĩa là đòi hỏi rằng tất cả phải thay đổi, ngay cả trong quá khứ… Quả thật, có nhiều nhà luân lí hợp lí khi muốn rằng con người phải khác, nghĩa là phải có đức hạnh, họ muốn hắn phải rập theo hình ảnh của họ, theo hình ảnh của những kẻ giả đạo đức. Chính vì lẽ đó mà họ đã chối bỏ thế giới. Không phải không điên chút nào!... Chừng nào mà luân lí lên án vì lợi ích của chính nó, không đếm xỉa gì tới cứu cánh và mục đích của cuộc đời, thì nó là một sự sai lầm đặc biệt người ta không thể nương tay, mộtđặc chất của những kẻ sa đoạ đã gây ra không biết bao nhiêu là tai hại! Trái lại chúng ta, những kẻ phi luân, chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận tất cả mọi thứ hiểu biết, thấu hiểu và tán thành [23] . Chúng ta không phủ định một cách nông nổi dễ dàng, chúng ta tìm danh dự của chúng ta trong việc trở thành những kẻ khẳng định[24] . Cặp mắt chúng ta luôn luôn mở rộng hơn nữa cho sự cần kiệm còn cần dùng và biết dùng tất cả cái mà sự điên rồ thiêng liêng của những tu sĩ và lí trí bệnh hoạncủa những tu sĩ thải đi, cho sự cần kiệm trong luật đời rút tỉa lợi ích cho mình từ những loại đạo đức giả, những tu sĩ và những kẻ đức hạnh nhơ nhớp nhất, - lợi ích gì? - Nhưng mà chính chúng ta, chúng ta những kẻ phi luân, chính chúng ta đây đã là một lời giải đáp sống động rồi…
Bốn sai lầm trầm trọng
1.
Sai lầm giữa nguyên nhân và hậu quả. - Không có sự sai lầm nào nguy hiểm hơn sự lầm lẫn cho hậu quả là nguyên nhân: tôi gọi điều đó là sự đảo điên thác loạn đích thực của lí trí. Tuy nhiên, sự sai lầm này là một trong những tập quán cố cựu nhất và mới mẻ nhất của nhân loại: nó còn được thần thánh hoá giữa chúng ta nữa, nó mang tên “tôn giáo” và “luân lí”. Bất cứ mệnh đề nào phát biểu, bởi tôn giáo và luân lí cũng đều chứa đựng sai lầm này; những tu sĩ và những kẻ thiết định qui tắc luân lí là những kẻ chủ xướng sự bại hoại này của lí trí. Tôi đan cử một thí dụ. Tất cả mọi người đều biết cuốn sách nổi tiếng của Cornaro trong đó ông ta giới thiệu sự ăn uống kiêng khem nghiêm nhặt của ông như phương pháp cho một đời sống lâu dài và sung sướng - một đời sống đức hạnh nữa. Ít có cuốn sách nào được đọc nhiều đến thế và ngay cả bây giờ ở Anh, mỗi năm người ta in hàng trăm ngàn cuốn. Tôi tin rằng ít có cuốn sách nào (trừ Kinh Thánh, dĩ nhiên) lại tác hại nhiều như thế, lại rút ngắn nhiều đời sống như sự kỳ lạ đầy hảo ý đó. Lý do: lầm lẫn cho hậu quả là nguyên nhân. Tác giả người Ý đáng kính này nhìn thấy trong sự ăn uống kiêng khem lànguyên nhân của sự trường thọ của ông: trong khi điều kiện tiên quyết để sống lâu, sự chậm rãi lạ lùng trong sự tiêu hoá, sự thẩm thấu yếu ớt, là nguyên nhân của sự ăn uống kiêng cữ của ông. Ông ta không tự ý muốn ăn nhiều ít thế nào cũng được, sự đạm bạc của ông ta không phải là một “sự tự do theo ý muốn”: ông ta đau ốm ngay khi ông ta ăn nhiều. Nhưng khi người ta không phải là một kẻ ốm trơ xương thuộc loại đó, thì không những người ta phải ăn uống đầy đủ mà người ta còn tuyệt đối cần phải ăn uống đàng hoàng nữa. Một nhà bác học thời đại chúng ta, với sự tiêu thụ năng lượng trí não mau chóng, chẳng bao lâu sẽ tàn tạ với régime [25] của Cornaro, Credo experto [26] .
2.
Định thức phổ quát dùng làm căn bản cho mọi tôn giáo và luân lí là: “Phải làm việc này việc nọ, không được làm việc này hay việc nọ - và người sẽ được sung sướng! Nếu không…” Tất cả mọi luân lí, mọi tôn giáo là mệnh lệnh đó, - tôi gọi đó là tội tổ tông của lí trí, sự phi lí muôn đời. Trong miệng tôi định thức này đổi thành ngược lại - thí dụ đầu tiên về sự “đảo hoán mọi giá trị” của tôi: một người cường tráng, một người “sung sướng” bắt buộc phải làm một số hành động nào đó và tự nhiên chùn lại sợ không dám làm một số những hành động khác; hắn mang đẳng cấp hắn tiêu biểu về phương diện sinh lí vào trong những giác quan của hắn với con người và sự vật. Phát biểu thành định thức: đức hạnh của hắn là kết quả của hạnh phúc hắn… [27] Cuộc sống trường thọ con cháu đầy đàn, không phải là phần thưởng của đức hạnh đúng hơn chính đức hạnh, là sự trì trệ trong tiến trình thẩm thấu mà một trong những hậu quả của nó là một cuộc sống trường thọ và hậu huệ đầy đàn, tóm lại, cái mà người ta gọi là chủ thuyết Cornaro. - Giáo Hội và Luân lí dạy: “Tật xấu và sự xa hoa làm tiêu diệt một chủng tộc hay một dân tộc.” Trái lại lí trí đã được chỉnh đốn lại của tôi khẳng định: “Khi một dân tộc diệt vong, suy đồi về phương diện sinh lí, thì từ đó mới nảy sinh những tật xấu và sự xa hoa (nghĩa là nhu cầu kích thích mỗi ngày một mạnh hơn và thường hơn, như tất cả những bản chất suy nhược đều biết). Gã trai trẻ kia gầy yếu xanh xao và mòn mỏi trước tuổi. Bạn bè hắn nói: bệnh này hay bệnh nọ là nguyên nhân của sự kiện đó. Tôi trả lời: chính sự kiện hắn bệnh tật, chính sự kiện hắn thất bại không thể chống lại bệnh hoạn, tự nó đã là hậu quả của một cuộc sống nghèo nàn, một sự suy nhược di truyền rồi. Những kẻ đọc báo [28] nói: đảng này sẽ suy sụp nếu phạm phải một lỗi lầm như thế. Chính trị cao viễn của tôi trả lời: một đảng phái mà phạm phải một lỗi lầm như thế là đã đến lúc tàn mạt rồi vậy - nó không còn có sự chính xác bản năng nữa. Tất cả mọi lỗi lầm, bất cứ thuộc loại nào, là hậu quả của sự suy đồi của bản năng, của sự phân hoá của ý chí: đó hầu như là định nghĩa của cái xấu. Tất cả mọi sự tốt lành là bản năng [29] - và do đó dễ dàng, thiết yếu, thong dong. Sự cố gắng là một vấn nạn, thần thánh đặc biệt khác hẳn người anh hùng (nói theo ngôn ngữ của tôi: đôi chân nhẹ nhàng là đặc tính đầu tiên của thần tính).
3.
Sai lầm về một giả nguyên nhân. - Người ta luôn luôn tưởng mình biết thế nào là một nguyên nhân; nhưng chúng ta rút sự hiểu biết của chúng ta, hay đúng hơn, lòng tin tưởng vào sự hiểu biết của chúng ta, từ đâu ra? Từ lãnh vực của những “sự kiện nội tại” lừng danh mà cho đến bây giờ chưa có một sự kiện nào tự chứng tỏ là một sự kiện xác thực. Chúng ta tin tưởng chúng ta là tác nhân trong hành động theo ý chí: ít ra là ở đây chúng ta tin rằng chúng ta bắt được quả tang nguyên nhângiữa đường trường. Tương tự như vậy, người ta không bao giờ ngờ được rằng mọi anteccedentia [30] của một hành động, nguyên nhân của nó, phải tìm trong ý thức và có thể khám phá thấy ở đấy nếu người ta tìm kiếm chúng - như những “duyên cớ”: bởi nếu không người ta đã không tự do hành động, chịu trách nhiệm về hành động đó. Cuối cùng, kẻ nào đã bàn cãi rằng một tư tưởng đã được khởi lên, rằng cái tôi đã khơi nguồn tư tưởng?... Từ ba “sự kiện nội tại” và nhờ đó nguyên nhân hầu như được đảm bảo, nguyên nhân thứ nhất và cũng là nguyên nhân hùng hồn nhất, là ý chí như là nguyên nhân; quan niệm về một ý thức (“tinh thần”) như nguyên nhân, và sau đó quan niệm về cái tôi (“chủ thể”) như nguyên nhân chỉ là sản phẩm hậu sinh, sau khi nguyên nhân, trên nền tảng ý chí, đã được thiết định vững vàng như một sự kiện, như kinh nghiệm… Trong khi đó chúng ta suy nghĩ chín chắn hơn về điều đó. Tất cả những điều đó ngày nay chúng ta không còn tin tưởng một chữ nào nữa. “Thế giới nội tại” đầy những ảo ảnh và ánh sáng giả tạo: ý chí là một trong những ảo ảnh đó. Ý chí không còn chuyển động được cái gì nữa, do đó không còn giải thích được gì nữa - nó chỉ đi theo những biến cố, nó còn có thể vắng mặt nữa. Cái được gọi là “duyên cớ”: một sự lầm lẫn khác. Đó chỉ là một hiện tượng hời hợt của ý thức, một cái gì đi bên cạnh hành động, che dấu hơn là bầy tỏ những tiền sự của hành động. Còn về phần cái tôi! Cái tôi đã trở thành một huyền thoại, một sự tưởng tượng, một trò chơi chữ: nó đã hoàn toàn ngừng suy nghĩ, cảm và muốn!... Từ đó xẩy ra điều gì? Không có cái gì là nguyên nhân tinh thần cả! Toàn thể nền tảng kinh nghiệm vững chắc bảo đảm cho nó đã đi đời nhà ma! Đó là cái nối tiếp theo! - Và chúng ta đã lạm dụng “duy nghiệm thuyết” một cách khôn ngoan, chúng ta đã sáng tạo thế giới trên nền tảng của nó như một thế giới của nguyên nhân, như một thế giới của ý chí, như một thế giới của tinh thần. Nền tâm lý học cổ điển nhất và sống dai dẳng nhất đã ra tay làm việc ở đây, thực ra nó không làm việc gì khác: tất cả mọi biến cố đối với nó đều là hành động, tất cả mọi hành động đều là hậu quả của một ý chí; đối với nó thế giới trở thành vô vàn tác nhân, một tác nhân, một “chủ thể” nằm tại căn đế của mọi biến cố. Con người đã phóng ra ngoài nó ba “sự kiện nội tại” mà nó tin tưởng chắc chắn, là ý chí, tinh thần và tự ngã, - trước hết nó diễn dịch ý niệm về hữu thể từ ý niệm về tự ngã, nó giả thiết “sự vật” hiện hữu theo hình ảnh nó, theo ý niệm của nó về tự ngã như là nguyên nhân. Có gì đáng ngạc nhiên đâu khi sau này nó luôn tìm thấy trong sự vật cái mà nó đã đặt vào trong sự vật? - Chính sự vật, xin nhắc lại lần nữa, khái niệm về sự vật, chỉ là phản ảnh của niềm tin vào tự ngã như là nguyên nhân… Và ngay cả nguyên tử của quí vị, thưa quí vị theo cơ giới luận và vật lí học, thứ tâm lí sai lầm không biết chừng nào mà kể vẫn bám chặt vào nguyên tử của quí vị! - Ấy là chưa nói gì về “sự vật tự nội”, cáihorrendum pudendum [31] của nhà siêu hình học! Sự sai lầm của tinh thần được coi như nguyên nhân, lẫn lộn với thực tại! Và đo lường thực tại! Và được gọi là Thượng Đế!
4.
Sai lầm về những nguyên nhân tưởng tượng. - Lấy giấc mơ làm khởi điểm: với một cảm giác xác định nào đó, chẳng hạn cảm giác gây ra bởi tiếng súng đại bác từ phía xa, một nguyên nhân liền sau đó thường được gán ghép vào (thường là cả một cuốn tiểu thuyết nhỏ mà dĩ nhiên kẻ mơ mộng là nhân vật chính). Trong khi đó cảm giác tiếp tục kéo dài, như một thứ âm hưởng dội lại, một cách nào đó nó chờ đợi cho đến khi bản năng về nguyên nhân cho phép nó đi lên hàng đầu - từ nay trở đi không phải như một sự tình cờ nữa mà như một “ý nghĩa”. Tiếng súng đại bác tự biểu lộ dưới hình thức nguyên nhân, trong một sự đảo lộn thời gian thấy rõ. Cái đến sau, trình bày duyên cớ, lại được cảm nghiệm trước, thường với hàng trăm chi tiết lướt qua như một tia chớp, tiếng súng tiếp theo… Điều gì đã xẩy ra? Những ý tưởngđược tạo ra bởi một trạng thái đặc biệt được diễn dịch sai lầm như nguyên nhân của chính trạng thái đó. Quả thực, chúng ta hành động tương tự như vậy khi chúng ta tỉnh thức. Phần lớn những cảm giác tổng quát của chúng ta - tất cả mọi loại câu thúc, dồn ép, căng thẳng, bột phát trong tác động hỗ tương của những giác quan, và đặc biệt hơn nữa trạng thái của nervus sympathicus [32] - kích động bản năng về nguyên nhân của chúng ta: chúng ta muốn có một lý do để được ở trong một trạng thái như thế như thế - để cảm thấy mạnh khoẻ hay đau yếu. Chẳng bao giờ chúng ta thoả mãn khi chỉ nghiệm thấy sự kiện chúng ta cảm thấy thế này hay thế nọ: chúng ta chỉ chấp nhận sự kiện - chúng ta chỉ ý thức về nó - khi nào chúng ta đã cung cấp cho nó một thứ nguyên nhân nào đó. - Ký ức, trong những trường hợp này, tự nhiên trở nên linh động một cách máy móc, mang gợi lại những trạng thái trước tương tự như vậy và những diễn giải - nguyên nhân liên kết với chúng, - chứkhông phải nguyên nhân của chúng. Chắc chắn sự tin tưởng rằng những ý tưởng, những tiến trình song hành của ý thức, là nguyên nhân, cũng do ký ức đem lại. Do đó nẩy ra thói quen về một cách diễn giải nguyên nhân nào đó, quả thực, ngăn trở và cấm đoán nữa, sự truy tìm nguyên nhân đích thực.
5.
Giải thích tâm lí sự kiện trên. - Lôi kéo một cái gì chưa biết về cái đã biết rồi, là trấn an tinh thần, làm tinh thần nhẹ nhõm, thoả mãn, ngoài ra còn tạo ra một cảm thức về sức mạnh. Cái chưa biết bao hàm sự nguy hiểm, bất an, lo âu - bản năng đầu tiên là diệt trừ những hoàn cảnh đau đớn này. Nguyên tác thứ nhất: bất cứ một giải thích nào đó cũng hơn là thiếu giải thích. Bởi vì tựu trung chỉ cần trừ khử những ý tưởng ghê sợ, người ta không cần lưu tâm tới những phương tiện dùng để trừ khử chúng: cái ý tưởng thứ nhất, nhờ nó, cái chưa biết tự chứng tỏ là cái biết rồi tạo ra một cảm giác thoải mái đến nỗi nó “được coi là đúng”. Chứng cứ khoái lạc (“sức mạnh”) như tiêu chuẩn của chân lí. - Vậy bản năng - nguyên nhân được điều kiện hoá và kích thích bởi cảm giác sợ hãi. Câu hỏi “tại sao?”, nếu có thể, không những cung cấp nguyên nhân cho chính nó, mà còn cả một thứ nguyên nhân nữa - một nguyên nhân trấn an, giải thoát và làm tinh thần nhẹ nhõm. Kết quả đầu tiên của nhu cầu này là một cái gì đã biết nay đã hoàn toàn kinh nghiệm và được ghi nhận trong kí ức, được đặt làm nguyên nhân. Cái mới lạ, cái chưa kinh nghiệm, cái xa lạ bị loại khỏi nguyên nhân. - Vậy thì người ta không tìm một giải thích về nguyên nhân mà là tìm một lối giải thích chọn lọc và được ưa chuộng, lối giải thích tiêu trừ nhanh chóng nhất và thường nhất cái cảm giác xa lạ, chưa kinh nghiệm - những lối giải thích thông thường nhất. - Hậu quả: một lối qui định nguyên nhân có khuynh hướng đi tới chỗ càng ngày càng chế ngự nhiều hơn nữa, trở thành tập trung trong một hệ thống và cuối cùng đi tới chỗ độc tôn nghĩa là loại trừ những nguyên nhân khác và những giải thích khác. Chủ ngân hàng nghĩ ngay tới “áp- phe”, tín đồ Kitô giáo nghĩ tới “tội lỗi”, thiếu nữ nghĩ tới “tình yêu” của mình.
6.
Toàn thể lãnh vực luân lí và tôn giáo thuộc về ý niệm “những nguyên nhân tưởng tượng đó”. - “Giải thích” về cảm giác khó chịu chung. Những cảm giác này tuỳ thuộc nơi những kẻ thù nghịch với chúng ta (những tinh thần tội lỗi: đó là trường hợp nổi tiếng nhất - những kẻ mắc bệnh ưu uất thần kinh bị hiểu lầm là phù thuỷ). Những cảm giác này tuỳ thuộc những hành động không thể thẩm định (cảm thức “tội lỗi”, “phạm tội” được gán cho một sự khó chịu thuộc về sinh lí - người ta luôn luôn tìm thấy lí do để bất mãn với chính mình). Những cảm giác này tùy thuộc sự trừng phạt, chuộc lại một việc gì mà chúng ta đã không được làm, một cái gì mà chúng ta đã không được là (ý tưởng được tổng hợp, dưới một hình thức trơ trẽn, thành một mệnh đề trong đó luân lí hiện ra đúng chân tướng của nó, nghĩa là như chất kịch độc và sự phỉ báng cuộc đời: “Tất cả mọi đau đớn, thuộc thể xác hay tinh thần, đều cho thấy chúng ta xứng đáng được, bởi nó không đến với chúng ta nếu chúng ta không xứng đáng nhận lãnh nó. (Thế giới như Ý Chí và Biểu Tượng II, 666). Những cảm giác này tùy thuộc những hành động bồng bột thiếu suy nghĩ có những hậu quả tai hại (- những đam mê, những giác quan bị coi như là nguyên nhân, như là phạm tội; những tai biến sinh lí trở thành hình phạt “xứng đáng” nhờ những tai biến khác). - “Giải thích” những cảm giác dễ chịu chung. Những cảm giác này tuỳ thuộc lòng tin tưởng vào Thượng Đế. Chúng cũng tuỳ thuộc ý thức về những hành động tốt (cái mà người ta gọi là “lương tâm yên ổn”, một trạng thái sinh lí đôi khi giống như một sự tiêu hoá tốt, như nó thường bị hiểu lầm như thế.) Chúng tuỳ thuộc kết quả thành công của một vài công việc nào đó (- Kết luận ngây thơ: kết quả thành công của một công việc không mang lại cho một người mắc bệnh ưu uất hay một Phascal bất cứ một cảm giác thú vị chung nào cả). Chúng có thể tuỳ thuộc đức tin, tình yêu và lòng hy vọng - những đức tính Kitô giáo. Trong thực tế, tất cả những cái tự nhận là giải thích này chỉ là những hậu quả của những trạng thái thú vị hay khó chịu nào đó và được di dịch sang một thổ ngữ sai lầm: một người ở trong trạng thái hi vọng bởi vì cảm giác sinh lí trỗi vượt hơn cả của con người hắn, một lần nữa lại mãnh liệt và đầy đủ; người ta tin tưởng vào Thượng Đế bởi vì cảm giác về sự tràn đầy và sức mạnh mang lại cho tâm trí hắn sự nghỉ ngơi. - Luân lý và tôn giáo hoàn toàn thuộc về tâm lí học về lầm lẫn; trong bất kì trường hợp đặc thù nào nguyên nhân cũng bị lầm lẫn với hậu quả hoặc chân lí với hậu quả của cái mà người ta coi như chân lí; hay hơn nữa, một trạng thái của ý thức với một chuỗi nguyên nhân gây ra trạng thái này. -
7.
Sự sai lầm của tự do ý chí. - Ngày nay chúng ta không còn chút thiện cảm nào đối với khái niệm về “tự do ý chí” nữa: chúng ta biết nó quá rõ - cái xảo thuật thần học khả ố nhất trần đời của những nhà thần học để khiến cho nhân loại “có trách nhiệm” theo kiểu những nhà thần học, nghĩa là: làm cho nhân loại tuỳ thuộc vào những nhà thần học… Ở đây tôi chỉ nêu ra tâm lí của khuynh hướng làm con người có trách nhiệm này. - Ở bất cứ nơi nào mà người ta tìm kiếm trách nhiệm thì thường là bản năngtrừng phạt và kết án bắt tay vào việc tìm kiếm. Biến dịch bị tước đoạt mất sự hồn nhiên vô tội khi người ta đưa bất cứ một trạng thái nào về ý chí, ý định, về những hành động có trách nhiệm: lí thuyết ý chí được tạo ra chủ yếu nhằm mục đích trừng phạt, nghĩa là với ý định vạch tội. Toàn thể tâm lí học cổ điển, tâm lí học chủ ý chí bắt nguồn từ sự kiện những người tạo ra nó, những tu sĩ đứng đầu những tập thể cổ xưa, muốn tạo ra quyền ra hình phạt - hay đúng hơn họ muốn tạo ra quyền đó cho Thượng Đế… Con người được coi là “tự do” để có thể bị kết án và trừng phạt, - để có thể có tội: do đó tất cả mọi hành động đều phải coi như do ý muốn, nguồn gốc của tất cả mọi hành động như nằm trong ý thức (- do đó sự giả mạo căn bản nhất in psychologicis được đặt làm nguyên tắc của chính tâm lí học)… Ngày nay khi chúng ta đi vào hướng ngược lại, khi chúng ta, những kẻ vô luân, cố gắng tìm kiếm loại khỏi thế giới những khái niệm về tội lỗi và hình phạt, cũng như tẩy sạch tâm lí học, lịch sử, thiên nhiên, những cơ cấu và luật lệ xã hội, chúng ta nhận thấy chúng ta không có đối thủ nào triệt để hơn những nhà thần học, những kẻ tiếp tục làm ung độc sự hồn nhiên của biến dịch với “tội lỗi” và “hình phạt” bằng khái niệm về “trật tự luân lí”. Kitô giáo là siêu hình học của đao phủ…
8.
Lí thuyết duy nhất của chúng ta có thể là gì? - Là không một ai có thể cho con người những đặc tính của nó, ngay cả Thượng Đế, xã hội, cha mẹ và tổ tiên, ngay cảchính hắn nữa (- ý tưởng phi lí cuối cùng bị bác bỏ ở đây, đã được giảng dạy như “tự do minh nhiên” của Kant và có thể bởi Platon trước nữa). Không một ai chịu trách nhiệm bởi sự kiện hắn hiện hữu, hay được cấu tạo như con người hiện tại của hắn, hoặc sống trong những hoàn cảnh và môi trường trong đó hắn đang sống cả. Định mệnh của bản chất hắn không thể tách khỏi định mệnh của tất cả những cái đã là và sẽ là. Hắn không phải là kết quả của một ý hướng cá biệt, một ý chí, một mục đích nào, hắn không phải là một sự thí nghiệm để đạt tới một “con người lí tưởng” hay một “hạnh phúc lí tưởng” hoặc một “đạo đức lí tưởng” thật là phi lí khi muốn láibản chất hắn về bất cứ mục tiêu nào khác. Chúng ta đã tạo ra ý tưởng về mục đích: trong thực tế không có “mục đích”… Con người vốn thiết yếu, con người là một mảnh định mệnh, con người thuộc toàn thể, con người ở trong toàn thể - không có gì có thể phán đoán, đo lường, so sánh, lên án cuộc hiện hữu của chúng ta…Nhưng không có gì bên ngoài toàn thể! - Không một ai còn có trách nhiệm nữa, loại hạng của hữu thể không thể đưa về causa prima [33] được nữa, thế giới là một nhất thể không phải như thế giới khả giác cũng không phải như tinh thần duy có điều này là sự giải thoát tối thượng - duy bởi đó sự hồn nhiên của Biến dịch được khôi phục lại… Ý tưởng về “Thượng Đế” cho tới bây giờ là một vấn nạn lớn lao nhất đối với cuộc đời… Chúng ta khước từ Thượng Đế, chúng ta khước từ trách nhiệm nơi Thượng Đế: chỉ bằng cách đó thôi chúng ta mới cứu vớt được thế giới.
[1]Từ quan điểm vĩnh cửu - Ghi chú của Dịch giả.
[2]Sein, Pêtre, Being
[3]Schein, Apparence, apparence. - G.c.D.
[4]Pháp văn trong nguyên bản: định kiến
[5]Héraclite là triết gia tiền-Socrate duy nhất tin vào Biến Dịch, vào hiển thể và những gì giác quan chứng nghiệm. - G.c.D.
[6]Nguyên nhân của chính nó.
[7]Hữu thể chân thực nhất. - G.c.D.
[8]Täter und Tun - G.c.D.
[9]Ich-Subsstanz.
[10]Vernunft Kategorien. “Phạm trù” (Kategoric) ở đây chỉ có nghĩa là phương tiện, không mang một âm hưởng nào “Phạm trù” của Kant cả - G.c.D.
[11]“wahres Sein”
[12]Nicht-Sein
[13]Hay hư vô, Nicht
[14]Danh từ Phật giáo: Sắc giới - G.c.D.
[15]Wahrheit = chân lí, tương đương với wahre Wet = thế giới chân thực.
[16]Nietzsche muốn nói tới Kant và tỉnh Königsberg, miền bắc nước Đức, nơi Kant sống và chết. - G.c.D.
[17]NƠI ĐÂY BẮT ĐẦU ZARATHUSTRA (Và bắt đầu triết lí Nietzsche) - G.c.D.
[18]Pháp văn trong nguyên bản: “Phải giết chết những đam mê”. - G.c.D.
[19]Dòng Trappe, dòng luyện tâm, nổi tiếng vì kỷ luật khắt khe. - G.c.D.
[20]Instinkte des Lebens, Thoát ra ngoài sự câu thúc của ngôn ngữ, “Instinkte des Lebens”, ở đây còn có thể hiểu như “khuynh hướng về đời sống”. Trái với tất cả những nền luân lí khác đàn áp cuộc sống, đầy những cấm kỵ, hướng về điều “thiện” như một cứu cánh tuyệt đối, đức lý lành mạnh theo Nietzsche nhằm xiển dương cuộc đời, kích thích bản năng sinh động, hướng về một cuộc sống giải thoát, nguy hiểm, mãnh liệt. Tư tưởng sau có thể nói lên chủ trương của tất cả những nền đức lý lành mạnh (gesunde Moral) ấy: “Tất cả những gì sống đều thiêng liêng.” (everything that lives is holy - William Blake, America) và Cuộc sống đích thực của những giác quan và xác thịt tôi siêu thăng những giác quan và xác thịt tôi” (the real life of my senses and flesh transcending my senses and flesh - Walt Whitman, Leaves of Grass) - G.c.D.
[21]das Leben selbst zwingt uns, Werte anzusetzen; das Leben selbst wertet durch uns, wenn wir Werte ansetzen…
[22]Lời của Pilate khi rửa tay trao Jésus Christ do dân Do Thái “Ecce homo” có nghĩa là: “”Đây là con người đó!” hay “Hãy nhìn người này!” (Saint Jean, XIX, 5) - G.c.D.
[23]Ở đây chúng ta không thể không nhắc tới Spinoza, một trong những triết gia mà Nietzsche coi như tiền bối của mình, với chủ trương đón nhận tìm hiểu và không bao giờ lên án con người tương tự: “Seduce curavi, humanas actiones non redere non lugere neque detestari, sed intelligere”,Tractatus politieus (1677) ch. 1, 4. “Tôi đã cố gắng một cách thận trọng để không chế giễu hay thương hại hoặc ghê tởm những hành vi con người, mà chỉ để thấu hiểu chúng” - G.c.D.
[24]Wir verneinen nicht leicht, wir suchen unsre Ehre darin, Bejahende zu sein. Tất cả định tắc luân lí của Nietzsche nằm trong một chữ “Ừ” hoặc “Phải” hay “Vâng” (Yea) trước cuộc đời, trước tất cả những nguồn vui, trước tất cả khổ đâu, trước tất cả dâu biển tang tương thê thảm và khủng khiếp của cuộc đời. Con người lí tưởng của Nietzsche khẳng định giống như những nhân vật bi tráng trong bi kịch Hy Lạp sau khi đã trải qua tất cả khảm kha bất bình: “Tất cả đều tốt lành.” (Tout est bien) - G.c.D.
[25]Pháp văn: Phép ăn uống kiêng cữ.
[26]Hãy tin kẻ đã thí nghiệm!
[27]In Formel: seine Tugend ist die Folge seines Glücks… - G.c.D.
[28]Hạng người “thời đại” Nietzsche khinh bỉ - G.c.D.
[29]Alles Gute ist Instinkt.
[30]Việc trước, tiền sự của một sự việc hay sự kiện gì. - G.c.D.
[31]Phần xấu xa đáng xấu hổ. - G.c.D.
[32]Thần kinh giao cảm. - G.c.D.
[33]Nguyên nhân đệ nhất. - G.c.D
Những kẻ muốn “cải thiện” nhân loại
1.
Người ta biết điều tôi đòi hỏi nơi những triết gia: họ phải đặt mình bên kia thiện ác, - họ phải đặt ảo tưởng về phán đoán luân lí bên dưới họ. Sự đòi hỏi này là kết quả của một cuộc khảo sát mà tôi phát biểu lần thứ nhất: tôi đi tới chỗ kết luận rằng: không hề có những sự kiện luân lí. Phán đoán luân lí đồng ý với phán đoán tôn giáo trong sự tin tưởng vào những thực tại không có. Luân lí chỉ là một sự diễn giải một số những hiện tượng nào đó, nhưng là một sự diễn giải sai lầm. Phán đoán luân lí, hệt như phán đoán tôn giáo, thuộc về một bình diện ngu dốt nơi ý niệm về thực tại, sự phân biệt giữa thực và mộng tưởng chưa có: đến nỗi rằng, trên một bình diện tương tự, “chân lí” chỉ biểu thị những sự vật mà ngày nay chúng ta gọi là “tưởng tượng”. Đó là lí do tại sao phán đoán luân lí không bao giờ được coi là đứng đắn cả: như thế bao giờ nó cũng chỉ chứa đựng cái vô nghĩa. Nhưng, như một lí thuyết về kí hiệu, nó có một giá trị vô cùng quí báu: nó phát hiện, ít nhất cho những người hiểu biết, những thực tại quí giá nhất của những nền văn hóa và những thế giới bên trong chưa hiểu biết đủ để tự “hiểu” mình. Luân lí chỉ là ngôn ngữ của những dấu hiệu, một triệu chứng học, người ta phải biết trước nó chỉ cái gì để có thể rút lợi ích từ đó.
2.
Đây là thí dụ thứ nhất, hoàn toàn có tính cách tạm thời. Bất cứ thời nào người ta cũng muốn “cải thiện” con người cả: chính cái đó, trước hết, được gọi là luân lí. Nhưng dưới cùng một danh từ có thể ẩn dấu nhiều khuynh hướng khác biệt nhau nhất. Sự thuần hoá con vật người cũng như sự nuôi nấng một loại người nào đó đều có thể gọi là sự “cải thiện” được cả: chỉ có những danh từ thuộc về động vật học mới chỉ đúng những thực tại, - nhưng đó là những thực tại mà “kẻ cải thiện”, những giáo sĩ, quả thực, không biết gì cả, - không muốn biết gì cả… Gọi là “cải thiện” sự thuần hoá của một con vật, đối với lỗ tai của chúng ta nó hầu như một lời đùa cợt. Ai biết được điều xảy ra trong những chuồng thú, nhưng tôi không tin con vật được “cải thiện” ở đấy. Người ta làm yếu nó đi, người ta làm nó trở nên bớt nguy hiểm, bởi cảm thức suy nhược tinh thần của sự sợ hãi, bởi đau đớn, bởi sỉ nhục, bởi đói khát, người ta khiến nó thành con vật ốm đau bệnh hoạn - Chẳng khác gì con người thuần thục mà những giáo sĩ đã “cải thiện”. Trong những năm đầu thời Trung Cổ, khi Giáo Hội trước hết là một chuồng thú, khắp nơi người ta tổ chức những cuộc săn những loại thú “tóc vàng” đẹp đẽ nhất [1] - người ta “cải thiện” những dân Nhật Nhĩ Man quí phái chẳng hạn. Nhưng sau đó một kẻ dòng Nhật Nhĩ Man trông ra sao khi đã được “cải thiện” và đưa vào tu viện? Nó có vẻ như một bức hí hoạ của con người, một sự sa sẩy: người ta đã làm nó thành một kẻ “phạm tội”, nó bị nhốt trong lồng, người ta đã nhốt nó trong những khái niệm khủng khiếp… nó nằm đó, đau ốm, khốn khổ, lòng đầy hờn oán đối với chính mình; đầy thù hận đối với những bản năng hướng về đời sống, đầy nghi ngờ tất cả những gì còn khoẻ mạnh và sung sướng. Tóm lại, nó là một “tín đồ Kitô giáo”… Nói theo danh từ sinh lí học: trong trận đấu với mãnh thú, làm nó bệnh hoạn có thể là cách duy nhất làm nó yếu đi. Đó là điều Giáo Hội đã hiểu: Giáo Hội đã làm hư hỏng con người, Giáo Hội đã làm nó suy yếu đi - nhưng Giáo Hội lớn tiếng tuyên bố đã “cải thiện” con người…
3.
Chúng ta hãy xét một trường hợp khác của cái tự nhận là luân lí, trường hợp nuôi dưỡng một chủng loại đặc biệt nào đó. Thí dụ hùng vĩ nhất được cung hiến bởi luân lí Ấn Độ, được tôn giáo chuẩn nhận, là “Luật Manu”. Ở đây người ta đặt ra vấn đề phải nuôi không dưới bốn giai cấp cùng một lúc. Một giai cấp tăng lữ, một giai cấp chiến sĩ, một giai cấp thương gia và làm ruộng, và cuối cùng một giai cấp tôi tớ, giai cấp Sudra. Hiển nhiên ở đây chúng không có ở giữa đám người dậy thú nữa: một loại người một trăm lần dịu dàng và biết lẽ phải là điều kiện tiên quyết để đi tới chỗ quan niệm chương trình nuôi dưỡng như vậy. Người ta thở một hơi dài tự do khi ra khỏi bầu không khí Kitô giáo, bầu không khí của bệnh viện và của ngục tù, vào trong một thế giới lành mạnh hơn, cao ráo hơn và rộng rãi hơn? Tân Ước nghèo nàn xiết bao khi so với Manu và nó nặng mùi xiết bao! - Nhưng chính sự tổ chức này cũng cần phải khủng khiếp, - lần này không phải với dã thú mà với phản đề của nó với con người không được nuôi dưỡng, con người tạp nhạp, giai cấp Tchândâla [2] . Và lại một lần nữa nó không có cách gì làm yếu và vô hại hơn là cách làm cho nó bệnh hoạn - đó là cuộc tranh đấu với “đại đa số”. Có lẽ không có gì xúc phạm tình cảm của chúng ta cho bằng những biện pháp phòng ngừa của luân lí Ấn Độ. Sắc lệnh thứ ba chẳng hạn (Avadhna - sastra I) sắc lệnh về “rau cỏ nhơ bẩn” phán quyết rằng thực phẩm duy nhất dành cho giai cấp Tchândâla là hành và tỏi, nhân vì Thánh Kinh cấm cho họ mễ cốc hay trái cây có hạt hoặc nước hay lửa. Cũng sắc lệnh đó phán quyết rằng nước mà họ cần dùng không được lấy từ sông hay suối hoặc ao hồ, mà chỉ được lấy từ đầm lầy và những vũng nước chân thú vật. Họ còn không được phép giặt giũ quần áo và tắm rửa bởi vì nước họ được ban cho vì nhân đạo chỉ được dùng với mục đích duy nhất là giải khát. Sau cùng, những phụ nhữ Sudra không được phép giúp đỡ những phụ nhữ Tchândâla khi sinh đẻ, và những người phụ nữ sau này cũng không được phép giúp đỡ lẫn nhau… - Kết quả của những qui tắc vệ sinh này thấy rõ ngay: bệnh dịch chết người, bệnh phong tình ghê khiếp và như hậu quả của nó, một lần nữa “luật của lưỡi dao”, ban lệnh cắt bao bì qui đầu của những đứa bé trai và cắt bỏ labia minora [3] của những đứa bé gái. - Chính Manu nói: “Giai cấp Tchândâla là kết quả của ngoại tình, loạn luân và tội ác” (- đó là hậu quả thiết yếu của ý tưởng nuôi dưỡng). Quần áo chúng chỉ là những giẻ rách lấy từ những xác chết, chén bát là những bình, hũ bể, đồ trang sức là sắt gỉ, và ma quỉ là đối tượng thờ phượng của chúng; chúng phải đi lang thang hết nơi này tới nơi khác, không được nghỉ ngơi. Chúng không được viết từ trái sang phải và viết bằng tay phải; sự sử dụng tay phải và viết từ trái sang phải dành cho những người đức hạnh, cho những người thuộcchủng tộc cao quí.
4.
Những qui tắc này khá rõ ràng: qua chúng, ta thấy nhân tính của dòng Aryan, hoàn toàn sơ khai, chúng ta thấy ý tưởng “huyết thống tinh tuý” là sự ngược lại của một ý tưởng vô hại. Trái lại, nó trở nên rõ rệt trong dân tộc nào sự thù hận, sự thù hận giai cấp Tchândâla đối với “nhân tính” này đã được bất tử hoá, nơi nó đã trở thànhthần thánh… Từ quan điểm này, Phúc Âm là những tài liệu thượng hạng; Sách của Enoch còn hơn thế nữa. - Kitô giáo nẩy sinh từ gốc rễ Do Thái, chỉ có thể hiểu được như sản phẩm của mảnh đất, trình bầy sự phản động chống lại luân lí nuôi dưỡng, dòng giống, đặc ân - đó là tôn giáo - chống lại Aryan đệ nhất: Kitô giáo, là sự đảo hoán mọi giá trị Aryan, sự chiến thắng của những giá trị Tchândâla, Phúc Âm giảng cho dân nghèo và hạ tiện, sự nổi loạn tập thể của tất cả những kẻ bị chà đạp, những kẻ bần cùng, xấu hổ, bạc phước chống lại “dòng giống”, - sự trả thù vĩnh viễn của giai cấp Tchâdâla trở thành tôn giáo của tình yêu…
5.
Luân lí của sự nuôi dưỡng và luân lí của sự thuần hoá vô cùng giá trị bởi những phương tiện chúng dùng để đạt tới cứu cánh, chúng ta có thể thiết định như qui luật thứ nhất của chúng ta rằng để làm ra luân lí, người ta phải có ý muốn vô điều kiện cái nghịch lại. Đó là vấn đề lớn lao, vấn đề kì quái mà tôi đeo đuổi từ lâu: tâm lý: của “những kẻ muốn cái thiện” nhân loại. Một sự kiện nhỏ và khá khiêm tốn, sự kiện tự nhận là pia fraus [4] , đã mở cho tôi lối vào đầu tiên vấn đề này: pia fraus, di sản của tất cả những triết gia và giáo sĩ đã “cải thiện” nhân loại. Cả Manu lẫn Platon, cả Khổng Tử lẫn những giáo phụ Do Thái và Kitô giáo, chẳng người nào nghi ngờ quyền nói láo của họ. Họ cũng chẳng nghi ngờ nhiều quyền khác nữa của họ… Nếu muốn diễn tả thành định thức, người ta có thể nói: tất cả mọi phương tiện từ xưa tới nay được dùng nhằm mục đích làm cho con người đạo đức đều hoàn toàn vô luân. –
*
Những cuộc ngao du của con người phi thời
1.
Những bất khả của tôi. - Sénéque: hay kẻ đấu bò của đức hạnh. - Rousseau: hay sự trở về thiên nhiên in impuris naturalibus [5] . - Schiller: hay kẻ gióng Trống khua Chiêng - Đạo đức ở Sackingan [6] .- Dante: hay con lang làm thơ trong mộ. - Kant: hay sự lễ độ giả dối như đặc tính trí tuệ. - Victor Hugo: hay đèn pha của đại dương phi lí. - Listz: hay thiên tài âm nhạc - bên đàn bà. - George Sand: hay lactea uberta [7] nói theo tiếng Đức: die Milchkuh mit “schonem Stil” [8] . - Michelet: hay sự hăng say đã cởi áo khoác ngoài. - Carlyle: hay chủ trương bi quan như sự tiêu hoá trì trệ. - John Stuard Mill: hay sự minh bạch tổn thương. - Les frères de Goncourt [9] : hay hai tên Ajax chiến đấu chống lại Homène. Nhạc của Offenbach. Zola: hay “thú phóng uế”.
2.
RENAN. - Thần học, hay là sự đồi bại của lí trí bởi “tội tổ tông” (Cơ đốc giáo). Bằng chứng: Renan, kẻ bất cứ khi nào phải liều lĩnh đưa ra một tiếng phải hay không về một vấn đề thông thường, đều sai trật với một sự tuân thủ theo đúng kỉ luật một e dè thận trọng kiểu thầy dòng. Chẳng hạn ông ta muốn nối kết chặt chẽ la sciencevà la noblesse [10] lại với nhau; nhưng khoa học thuộc về chế độ dân chủ, điều đó quá hiển nhiên. Ông ta muốn trình bày không phải không có tham vọng, một sự quí phái tinh thần; nhưng đồng thời ông quì trước lí thuyết đối nghịch, évangile des humbles [11] và không phải chỉ quì gối mà thôi… Làm gì bằng tất cả những tinh thần tự do, tân tiến, tất cả sự diễu cợt, tất cả sự thay đổi địa vị một cách mềm mỏng, uyển chuyển đó, khi tận đáy lòng, người ta vẫn là tín đồ Cơ Đốc, Kitô giáo và ngay cả linh mục nữa? Renan có tài tìm tòi những sáng kiến để hấp dẫn, giống như một giáo sĩ dòng Gia Tô hội hay một linh mục chuyên nghe xưng tội; tinh thần ông không thiếu nụ cười nhân hậu giả dối rộng mở của thầy dòng - giống như tất cả những linh mục, ông ta chỉ trở nên nguy hiểm khi ông ta yêu. Không ai có thể sánh được với ông trong cách yêu quí chết người. Cái tinh thần này của Renan, một tinh thần bạc nhược, là một tai ương thêm vào cho nước Pháp bệnh hoạn đáng thương, ý chí suy vi. -
3.
SAINTE-BEUVE. - Không có chút đàn ông tính nào trong ông ta; ông ta đầy lòng thù hận nhỏ nhen đối với tất cả những tinh thần hùng tráng. Ông ta lang thang đây đó tinh tế, tò mò, chán chường tọc mạch - một người đàn bà tại căn đế, với những sự trả thù của đàn bà và nhục cảm đàn bà. Là một tâm lí gia, ông ta là thiên tàimédisance [12] ; khả năng khai thác chuyện dèm xiểm bất tận, không ai biết cách pha trộn độc dược với lời tán dương giỏi hơn. Những bản năng hạ đẳng của ông ta đều hạ lưu và bà con gần gũi với tính resentiment [13] ; của Rousseau: do đó ông ta là một kẻ theo phong trào lãng mạn, - bởi dưới mọi romantisme [14] đều có bản năng trả thù của Rousseau chầu chực, rình mò. Ông ta là một nhà cách mạng, nhưng dằn nén quá kĩ vì sợ hãi. Không độc lập trước tất cả những gì có sức mạnh (dư luận, hàn lâm viện, triều đình, ngay cả Port royal). Bực tức chống lại tất cả những gì vĩ đại trong người và sự vật, chống lại tất cả những gì tự tin nơi mình. Đủ là một thi sĩ và nửa - đàn bà để cảm thức sức mạnh của những gì vĩ đại; không ngừng co rúm như con sâu trong tục ngữ bởi ông ta luôn luôn cảm thấy bị chà đạp dưới gót chân. Là một nhà phê bình, ông ta không có tiêu chuẩn phê phán, không tiêu chuẩn hướng dẫn và không xương sống. Mặt dầu ông ta có miệng lưỡi của một libertin [15]quốc tế nhưng lại thếu can đảm nhìn nhận libertinage của mình. Là một nhà sử học không có triết lí, không có sức mạnh của viễn quan triết lí, - chính vì lí do đó ông khước từ trách nhiệm phê phán trong tất cả những vấn đề quan yếu, bằng cách dùng “khách quan tính” như một cái mặt nạ. Tuy nhiên ông ta có một thái độ khác hẳn trước những sự vật mà trong đó năng khiếu tinh tế và lão luyện là tối cao pháp viện: ở đó ông ta có cản đảm và thích thú là chính mình, - ở đó ông là bậc thầy. - Về một vài phương diện, đó là một kiểu mẫu đầu tiên của Baudelaire.
4.
IMITATIO CHRIST [16] là một trong những cuốn sách tôi không thể cầm mà không cảm thấy gớm tay [17] : nó toát ra một mùi người nữ vĩnh cửu [18] mà người ta phải là dân Pháp - hay là một tín đồ của Wagner mới chịu nổi… Ông thánh này có một lối nói về tình yêu khiến cho ngay cả những người đàn bà Paris cũng phải hiếu kì. - Người ta nói với tôi rằng A. Comte, tu sĩ dòng Gia Tô hội quỉ quyệt nhất, kẻ muốn dẫn dắt dân Pháp tới La Mã qua sự ngoắt ngoéo của khoa học, hứng khởi từ cuốn sách này. Tôi tin điều đó: “Tôn giáo của trái tim”…
5.
G. ELIOT. - Họ đã giải thoát khỏi Thượng Đế Kitô giáo và bây giờ họ cảm thấy phải bám lấy luân lí Kitô giáo chặt chẽ hơn bao giờ hết. Đó là cách lí luận kiểu Ăng lê, chúng ta không muốn nhạo báng những thứ luân lí - đàn bà à la Eliot [19] . Ở Anh, bất cứ một sự thoát li thần học nhỏ nhoi nào, người ta cũng phải hồi phục lại danh dự bằng cách khủng khiếp nhất là trở thành một kẻ cuồng tín luân lí. Đó là cách giải tội ở xứ này. - Với chúng ta lại khác hẳn. Nếu người ta khước từ đức tin Kitô giáo là người ta đồng thời tự bãi bỏ quyền hạn đối với luân lí Kitô. Bởi vì luân lí này không tự nó minh nhiên: điều này cần soi sáng lại luôn luôn mặc dầu đầu óc nông cạn của dân Anh. Kitô giáo là một hệ thống, một ý tưởng thống nhất và một quan niệm toàn bộ về sự vật. Nếu người ta phá bỏ một khái niệm căn bản chủ yếu, niềm tin vào Thượng Đế, là người ta phá tan cả một toàn thể: người ta chẳng có một chút cốt tuỷ nào trong tay nữa hết. Kitô giáo giả thiết rằng con người không biết gì cả, không thể biết cái gì tốt, cái gì xấu đối với mình: hắn tin tưởng vào Thượng Đế, đấng duy nhất hiểu biết. Luân lí Kitô giáo là một huấn giới; nguồn gốc của nó là siêu việt; nó ở trên mọi phê bình, mọi quyền phê bình, nó chỉ chứa đựng chân lí nếu Thượng Đế là chân lí - nó đứng vững hay sụp đổ với niềm tin vào Thượng Đế. - Nếu người Anh thực sự tin rằng tự họ hiểu biết bằng “trực giác”, thế nào là thiện, thế nào là ác, nếu do đó họ nghĩ rằng họ không cần Thượng Đế như một đảm bảo cho luân lí nữa, thì đó chỉ là hậu quả của quyền tối thượng của sự thẩm định Kitô giáo và là một bằng chứng của sức mạnh và chiều sâu của quyền tối thượng này: do đó nguồn gốc luân lí Anh Cát Lợi đã bị bỏ quên, do đó người ta không còn nhận thấy tính chất tuỳ thuộc lớn lao của quyền tồn tại của nó nữa. Đối với người Ăng Lê, luân lí không còn là một vấn đề nữa…
6.
GEORGE SAND. - Tôi đã đọc những bức thư đầu tiên của tập Lettres d’un voyageur; như tất cả những gì bắt nguồn từ Rousseau, những bức thư đó sai lầm, giả tạo, khoa trương, khoác lác. Tôi không thể chịu nổi thứ bút pháp vàng úa màu giấy dán tường; cũng như tham vọng khơi dậy những tình cảm khoan hồng tầm thường. Điều tồi tệ nhất là sự làm dáng đàn bà với những kiểu cách đàn ông, với những cung cách của hạng thanh niên vô giáo dục. - Bà ta phải lạnh lùng xiết bao với tất cả những điều đó, thứ nghệ sĩ không chịu nổi: bà ta tự lên dây như một cái đồng hồ - và viết… Lạnh lùng như Victor Hugo, như Balzac, như tất cả những kẻ theo phong trào lãng mạn khi họ bắt đầu ngồi vào bàn viết! Và với xiết bao tự mãn bà ta muốn nằm dài ra đó, con bò cái viết lách khủng khiếp có một chút Đức, trong ý nghĩa xấu xa nhất của danh từ, như Rousseau, bậc thầy của bà, kẻ chỉ có thể chịu đựng được khi thị hiếu Pháp đi đến chỗ suy đồi! Nhưng Renan kính phục bà ta…
7.
Luân lí cho những tâm lí gia. - Không đem tâm lí học bán rong! Không bao giờ quan sát chỉ để quan sát mà thôi! Điều đó tạo ra một viễn tượng sai lầm, một cái nhìn xiên lệch, một cái gì bị cưỡng bách và thổi phồng. Cảm nghiệm một điều gì muốn cảm nghiệm - không đem lại kết quả tốt đẹp. Trong khi cảm nghiệm, người ta không được phép nhìn trở lại mình, nếu không mọi cái nhìn đều trở thành “con mắt xấu”. Một tâm lí gia bẩm sinh tự nhiên chống lại việc nhìn chỉ để mà nhìn: một hoạ sĩ bẩm sinh cũng vậy. Hắn không làm việc “phỏng theo thiên nhiên”. - hắn giao cho bản năng, cho phòng tối của hắn, sàng sẩy và gạn lọc “thiên nhiên”, “trường hợp”, “kinh nghiệm sống”… Hắn chỉ ý thức về phổ quát tính, kết luận, kết quả: hắn không biết diễn dịch độc đoán từ trường hợp đặc thù. - Kết quả sẽ ra sao nếu người ta làm ngược lại? Đem tâm lí học đi bán rong, bán sỉ và bán lẻ như những romanciers Ba Lê, chẳng hạn? Như thế là người ta rình chờ thực tại, mỗi buổi chiều mang về nhà một dúm tò mò… Nhưng hãy nhìn hậu quả - một đống lộn xộn, hay hơn nữa một thứ tạp luận, và trong mọi trường hợp một cái gì thêm thắt, nhốn nháo, loè loẹt. Nhóm Goncourts đã đạt đến cực đỉnh tồi tệ của loại này: họ không bao giờ đặt ba câu cạnh nhau mà không làm nhức mắt, mắt nhà tâm lí học - Thiên nhiên, thẩm định theo quan điểm nghệ thuật, không phải là kiểu mẫu. Nó phóng đại, méo mó, để lại những lỗ hổng. Thiên nhiên là sự tình cờ. Nghiên cứu “theo thiên nhiên” đối với tôi dường như là một dấu hiệu xấu: nó phản lại sự phục tòng, yếu đuối! định mệnh thuyết, - sự qui luỵ trước những petits faits [20] này không xứng đáng với một nghệ sĩ hoàn toàn. Nhìn hiện thể của sự vật - điều đó thuộc về một loại đầu óc khác hẳn, những đầu óc phi-nghệ thuật, cụ thể. Người ta phải biết mình là ai…
8.
Về tâm lí học của nghệ sĩ. - Để có nghệ thuật, để có bất cứ một hành động hay một sự chiêm ngắm nghệ thuật nào, một điều kiện sinh lí chuẩn bị này không thể thiếu: sự ngây ngất. Trước hết sự ngây ngất phải nâng cao xúc cảm tính của toàn thể bộ máy: không nghệ thuật nào phát sinh trước khi điều đó xảy ra. Tất cả mọi trạng thái ngây ngất đó, dù nguồn gốc khác nhau thế nào chăng nữa, đều có khả năng tạo ra nghệ thuật này: trên tất cả là sự ngây ngất của kích động dục tình, hình thức xuất thần cổ điển và nguyên thuỷ nhất. Cũng vậy sự ngây ngất đi kèm theo tất cả những ước vọng lớn lao, tất cả mọi cảm xúc mãnh liệt; sự ngây ngất của yến tiệc, của tranh đấu, của hành vi dũng cảm, của chiến thắng, của giao động cùng cực; sự ngây ngất của tàn bạo; sự ngây ngất của phá huỷ; sự ngây ngất dưới một vài ảnh hưởng khí tượng nào đó, chẳng hạn sự ngây ngất của mùa xuân; hay dưới ảnh hưởng của thuốc mê; cuối cùng sự ngây ngất của ý chí chất chứa và căng phồng. - Yếu tính của sự ngây ngất là cảm thức về sự tràn đầy và gia tăng nghị lực. Bị kích thích bởi cảm thức này, người ta buông thả cho sự vật, bắt buộc sự vật tiếp nhận mình, cưỡng bức sự vật, - người ta gọi quá trình này là lí tưởng hoá. Ở đây chúng ta hãy đoạn trừ một thành kiến: sự lí tưởng hoá không hệ tại sự diễn dịch hay giảm trừ cái nhỏ bé và tuỳ phụ như người ta vẫn tin tưởng. Trái lại, việc vạch rõ một cách khủng khiếp những nét chính yếu, để đến nỗi những nét khác biến mất chính là cái quyết định tất cả.
9.
Trong trạng thái này người ta làm giầu tất cả mọi sự bằng chính sự phong phú của mình: điều hắn nhìn, điều hắn muốn, người ta đều thấy nó căng phồng, chặt chẽ, mạnh mẽ, chất chứa sức mạnh. Con người trong trạng thái này biến đổi sự vật cho đến khi chúng phản chiếu sức mạnh của hắn - cho đến khi chúng trở thành những phản ảnh của sự hoàn hảo của hắn. Sự cưỡng bách, biến đổi thành cái hoàn hảo này - là nghệ thuật. Tất cả đối với con người này đều là nguồn hân hoan trào vọt phát xuất tự trong mình; trong nghệ thuật, con người hân hưởng chính con người mình như sự hoàn hảo. Có thể tưởng tượng một trạng thái nghịch lại, một trạng thái phi nghệ thuật đặc thù của bản năng - một cách thế làm nghèo nàn, giảm trừ và làm hao mòn xanh xao tất cả mọi sự. Và quả thật lịch sử đầy rẫy những nghệ sĩ phi nghệ thuật thuộc loại này, những kẻ thiếu sinh lực cần chiếm đoạt tất cả mọi sự vật họ nhìn thấy, tiêu thụ chúng, làm chúng trở nên gầy mòn kiệt quệ. Đó là trường hợp một tín đồ Kitô giáo chính cống, trường hợp Pascal chẳng hạn; một tín đồ Kitô giáo đồng thời là một nghệ sĩ, điều đó không thể có… Đừng người nào trẻ con đến nỗi nêu Raphael hay bất cứ một tín đồ Kitô giáo theo tương đồng liệu pháp [21] thế kỉ thứ mười chín nào để chống lại phán quyết của tôi. Raphael nói ừ [22] , Raphael làm tích cực, do đó, Raphael không phải là một tín đồ Kitô giáo.
10.
Đâu là ý nghĩa của những ý niệm trái nghịch nhau Apollon và Dionysos, cả hai đều được coi như những hình thức ngây ngất mà tôi đã đưa vào thẩm mỹ học [23] - Sự ngây ngất apollinien trước hết kích thích nhãn quan, khiến nhãn quan thủ đắc sức mạnh thị lực. Hoạ sĩ, điêu khắc gia, thi sĩ anh hùng ca đều là những linh tưởng gia par excellence. Trái lại, trong trạng thái dionysien, tất cả hệ thống cảm xúc đều bị kích thích và nâng cao cường độ: đến nỗi nó phóng ra tất cả mọi phương tiện diễn tả bằng cách khu trục tất cả mọi sức mạnh bắt chước, mô phỏng, biến đổi, chuyển hoá, tất cả mọi loại hoạt hoạ theo và nghệ thuật bắt chước. Sự hoá thân dễ dàng vẫn là cái chính yếu, không thể phản động lại (- tương tự như một vài loại bệnh loạn trí, có thể bắt chước điệu bộ đóng bất cứ vai trò nào). Con người dionysien không thể không hiểu bất cứ sự dẫn khởi nào, hắn thủ đắc bản năng thấu cảm và tiên đoán cao độ, giống như hắn thủ đắc đến cao độ nghệ thuật thông tri với người khác vậy. Hắn biết thấu suốt bất cứ vỏ bao bọc nào, đi vào bất cứ cảm xúc nào; hắn thường xuyên biến đổi. - Âm nhạc, như chúng ta hiểu ngày nay, là một sự kích thích và giảm trừ cảm xúc, nhưng dầu vậy đó cũng chỉ là tàn tích của một thế giới của biểu thị tràn đầy hơn, một cặn bã của nghệ thuật riêng biệt, người ta phải bất động hoá một số giác quan, trước hết là những cơ năng, ít ra là một cách tương đối: bởi mọi tiết tấu đều hãy còn nói với những bắp thịt của chúng ta tới một giới hạn nào đó): đến nỗi con người không còn có thể nào bắt chước hay diễn tả bằng thân xác điều hắn cảm thấy được nữa. Tuy nhiên, đó chính là trạng thái dionysien thông thường, ít ra đó là trạng thái uyên nguyên của nó. Âm nhạc là sự cá biệt hoá thành tựu một cách chậm rãi, bằng cách nhờ vào những khả năng gần gũi với nó.
11.
Diễn viên, người diễn hí kịch, vũ viên, nhạc sĩ, thi sĩ trữ tình, rất gần nhau trong bản năng và cốt yếu là một, chỉ sau này mới cá biệt hoá và tách rời nhau ra - đi tới chỗ đối thoại với nhau nữa. Thi sĩ trữ tình đoàn kết lâu nhất với nhạc sĩ, diễn viên với vũ viên. Kiến trúc sư không diễn tả trạng thái dionysien cũng chẳng diễn tả trạng thái apollinien: ở đây là tác động vĩ đại của ý chí, ý chí dịch hải di sơn, sự say sưa của ý chí mạnh mẽ đòi hỏi sự diễn tả nghệ thuật. Những người mãnh liệt nhất luôn luôn gây hứng khởi đến cho kiến trúc sư: kiến trúc sư luôn luôn chịu ảnh hưởng của sức mạnh. Lòng kiêu hãnh, sự chiến thắng trên trọng lượng và trọng lực, ý chí hùng dũng phải được biểu hiện rõ rệt trong một toà lâu đài; kiến trúc là một thứ nghệ thuật hùng biện của sức mạnh bằng hình thể, khi thì hùng hồn thuyết phục hay mơn trớn, khi thì cộc lốc ra lệnh. Cảm thức mãnh liệt nhất về sức mạnh và chắc chắn tìm cách diễn tả trong grand style. Sức mạnh không cần chứng tỏ; khinh thị chiều đãi; không đối đáp hời hợt; không cảm thấy nhân chứng cận kề chung quanh; sống bằng những sự đối kháng người ta dựng lên chống lại mình; an nhiên trong chính mình, tuân theo vận mệnh, một luật lệ giữa những luật lệ: đó là điều nói về mình theo thể cách grand style cao nhã.
12.
Tôi đã đọc về cuộc đời Thomas Carlyle, đúng là trò hề không ý thức và không chủ tâm, sự diễn dịch anh hùng tính - có tính cách luân lí về chứng khó tiêu. - Carlyle, một người có ngôn ngữ và cử chỉ hùng mạnh, một biện luận gia bởi nhu cầu, thường xuyên bị dao động bởi khát vọng một đức tin mãnh liệt và cảm thức về sự bất lực không thể đạt đức tin ấy - (về phương diện này, đó là một người theo phong trào lãng mạn điển hình!) Khát vọng về một đức tin mãnh liệt không phải là bằng chứng của một đức tin mãnh liệt mà hoàn toàn ngược lại. Một khi có đức tin đó, hẳn người ta có thể trả giá sự hoang phí lòng hoài nghi xa hoa: người ta đủ chắc chắn, đủ vững vàng, đủ cố định cho lòng hoài nghi đó. Carlyle làm đinh tai nhức óc một cái gì trong ông với bài hát hùng mạnh ca ngợi những người có đức tin mãnh liệt của ông và sự điên cuồng chống lại những người ít rồ dại hơn của ông: ông cần ồn ào. Một sự thiếu thành thật say đắm thường xuyên với mình - đó là cái độc đáo của ông, chính vì thế mà ông đã và sẽ vẫn còn hấp dẫn. Dĩ nhiên ở Anh, người ta ngưỡng mộ ông chính bởi lòng chân thật của ông… À, đó là một cái gì đặc tính chất Ăng lê; và nếu người ta coi dân Anh là dân tộc giả dối quá đỗi quá chừng, thì điều đó còn hợp lí nữa chứ không phải chỉ dễ hiểu mà thôi. Đáo cùng, Carlyle là một kẻ vô thần Anh Cát Lợi muốn được tôn vinh mình không phải là một kẻ vô thần.
13.
Emeson. - Ông giác ngộ hơn, rộng rãi hơn, đa tài hơn và tế nhị hơn Carlyle rất nhiều, và trên hết, ông hạnh phúc hơn. Ông là một người tự nhiên sống bằng cao lương mĩ vị và gạt ra những thứ khó tiêu trong sự vật. So với Carlyle, đó là một người có khiếu thẩm mĩ. Carlyle, người rất quí mến ông, tuy vậy, nói về ông rằng: “Ông không cho chúng ta đủ ăn”: điều đó có thể đúng nhưng không thiệt hại gì cho Emerson. - Emerson có sự thanh thản tinh thần tốt lành làm nản lòng tất cả những kẻ nghiêm trang; ông không có ý niệm nào về sự kiện ông đã già đến mực nào và ông còn có thể trẻ lại đến mực nào, - ông có thể nói về mình như Lope de Vega: “Yo me sucedo a mi mismo” [24] . Tinh thần ông bao giờ cũng tìm thấy lí do để hạnh phúc và biết ơn nữa; đôi khi ông gần đi tới sự thanh thản siêu việt của con người cao nhã, từ một cuộc hẹn hò yêu đương tamquam re bene gesta trở về, lòng đầy biết ơn và nói: “Ut desint vires, tamen est laudanda volupta” [25] .
14.
Chống-Darwin. - Về nguyên lí lừng danh “đấu tranh để sinh tồn” đối với tôi dường như chỉ có tính cách khẳng định hơn là chứng minh. Nó xảy ra, nhưng như một ngoại lệ; bộ mặt tổng quát của cuộc sống không phải là cùng khổ, đói khát mà đúng hơn là giàu có, xa hoa hay ngay cả hoang phí nữa - nơi nào có tranh đấu là tranh đấu để dành sức mạnh… Không được lầm lộn Malthus [26] với thiên nhiên. - Tuy nhiên, giả dụ rằng có sự tranh đấu này đi nữa chăng - và quả thực, nó xẩy ra thật - kết quả của nó, tiếc thay, lại ngược lại với trường phái Darwin mong mỏi, và ngược lại với điều mà người ta có lẽ có thể mong ước cùng với họ: nghĩa là sự thất bại của những kẻ mạnh, những kẻ thiên bẩm, những ngoại lệ may mắn. Những chủng loại không tăng trưởng ngày một hoàn hảo hơn: những kẻ yếu càng ngày càng thắng lướt kẻ mạnh - bởi chúng thuộc về số đông và bởi chúng khôn khéo hơn… Darwin đã bỏ quên tinh thần (cái đặc biệt Anh Cát Lợi!), những kẻ yếu có nhiều tinh thần hơn. Người ta phải cần tinh thần để đi đến chỗ thủ đắc tinh thần, - người ta mất tinh thần khi không cần đến nó nữa. Kẻ có sức mạnh từ bỏ tinh thần của mình (- “hãy để nó ra đi! người ta nghĩ vậy ngày nay ở Đức - Reich sẽ ở lại cùng chúng ta…) [27] Người ta sẽ thấy rằng tôi dùng chữ tinh thần để ám chỉ sự thận trọng, kiên nhẫn, xảo quyệt, yếm trá, tự chủ mạnh mẽ và tất cả những gì là mô phỏng bắt chước (đặc tính cuối cùng bao gồm phần lớn cái được gọi là đức hạnh).
15.
Quỉ kế của những nhà tâm lí học. - Người này biết rõ bản chất con người: hắn nghiên cứu con người để làm gì? Hắn muốn thủ một chút lợi nhỏ hay một mối lợi lớn nữa trên họ, - hắn là một chính khách!... Người này nữa cũng là một kẻ hiểu tâm lí con người [28] : thế mà bạn lại nói rằng hắn không cầu cạnh điều gì cho hắn cả, rằng hắn sẽ là hoàn toàn “vô ngã”. Hãy nhìn gần hơn! Có thể hắn muốn một lợi ích tồi tệ xấu xa hơn nữa: hắn muốn cảm thấy hắn cao cả hơn con người, có quyền nhìn xuống họ, không hoà lẫn với họ. Mẫu “vô ngã” này là một sự miệt thị con người [29] , trong khi mẫu người thứ nhất nhân loại hơn, mặc dầu bề ngoài thế nào mặc lòng. Ít ra hắn cũng tự đặt mình trên cùng bình diện, hắn tự đặt mình ở giữa mọi người…
16.
Sự khéo léo tâm lí của người Đức đối với tôi dường như khả nghi bởi một loạt những trường hợp mà lòng khiêm tốn ngăn không cho tôi nêu ra. Tuy nhiên có một trường hợp đã cho tôi một cơ hội tốt để lập thuyết của tôi: tôi thù hận dân Đức vì họ đã lầm lẫn về Kant và “Triết lí cửa hậu” của ông, như tôi gọi nó, - bởi đó không phải là mẫu thanh liêm tri thức. - Có điều nữa mà tôi không thể nghe lọt tai là tiếng “và” khả ố: dân Đức nói “Goethe và Schiller”,- tôi sợ họ nói “Schiller và Goethe”. Họ có hiểu Schiller này đã không? - còn có những tiếng “và” tệ hơn nữa; chính tai tôi đã nghe thấy, quả thực chỉ trong đám giáo sư đại học mà thôi: Schopenhauer vàHartmann”…
17.
Những con người tâm linh thẳm sâu nhất, khi nhận họ là những kẻ can đảm nhất, đã cảm nghiệm những bi kịch đau đớn nhất: nhưng cũng chính vì lí do đó mà họ tôn vinh cuộc đời, bởi nó chống lại họ bằng sự đối kháng mãnh liệt nhất.
18.
Nói về “ý thức”. - Ngày nay không có gì hiếm hoi hơn sự giả đạo đức đích thực. Tôi rất hoài nghi rằng khí hậu ôn hoà của nền văn hoá chúng ta không thích hợp cho cái cây này. Sự giả đạo đức thuộc về những thời đại của đức tin mạnh mẽ: trong đó, ngay cả khi bị bó buộc phải phô trương một đức tin khác, người ta vẫn không chối bỏ đức tin riêng của mình; hay, thông thường hơn, người ta thủ đắc một đức tin thứ hai - tuy nhiên, người ta vẫn lương thiện trong bất cứ trường hợp nào. Hiển nhiên, ngày nay người ta có thể có nhiều đức tin hơn ngày xưa: có thể, nghĩa là được phép, nghĩa là vô hại. Từ đó nẩy ra lòng rộng lượng đối với chính bản thân. Sự rộng lượng đối với chính bản thân cho phép có nhiều đức tin; và những đức tin này hoà thuận với nhau, - và, như tất cả mọi người ngày nay, những đức tin này hết sức tránh thoả hiệp với nhau. Ngày nay người ta thoả hiệp với mình bằng cách nào? Bằng cách nhất trí. Bằng cách đi theo một đường thẳng. Bằng cách không hàm hồ, nghĩa là không cho phép năm cách diễn dịch đối kháng nhau một lúc. Bằng cách chân thật… Tôi e rằng con người hiện đại chỉ quá lười biếng đối với một số tật xấu đang bị tiêu diệt. Mọi tội lỗi đều tuỳ thuộc ý chí mạnh và có lẽ không có tội lỗi nếu không có sức mạnh của ý chí, - đều sa đoạ thành đức hạnh trong khí hậu ẩm ướt của chúng ta. Một vài kẻ giả đạo đức hiếm hoi mà tôi biết chỉ bắt chước sự giả đạo đức thôi: như hầu hết một phần mười con người ngày nay, họ là những kẻ đóng kịch.
19.
Đẹp và xấu. - Không có gì tương đối hay bị giới hạn hơn cảm thức về cái đẹp của chúng ta. Bất cứ kẻ nào muốn tách rời cảm thức này khỏi lạc thú con người tìm thấy nơi con người đều lập tức bị chới với ngay. Cái “đẹp tự nội” chỉ là một danh từ, chứ chưa được là một khái niệm nữa. Trong cái đẹp, con người tự đặt mình như tiêu chuẩn của sự hoàn hảo; trong những trường hợp chọn lọc, nó tự ngưỡng mộ mình trong đó. Một chủng loại không thể nào làm khác hơn là tự khẳng định mình theo cách đó. Bản năng hạ đẳng nhất của nó, bản năng tự bảo tồn và trương rộng mình hãy còn tỏ lộ trong những sự thăng hoa này. Con người tin rằng thế giới tự nó chứa đầy vẻ đẹp - nó quên rằng chính nó là nguyên nhân của tất cả những vẻ đẹp này. Nguyên mình nó đã cho thế giới một vẻ đẹp, than ôi! rất phàm phu, quá đỗi phàm phu!... Tóm lại con người đã phản chiếu trong sự vật, nó cho là đẹp tất cả những gì phản ảnh lại cái hình ảnh của chính nó: phán đoán cái đẹp là sự tự mãn chủng loại của nó… Tuy nhiên, một chút nghi ngờ có thể lọt vào tai kẻ hoài nghi: thế giới được tô điểm phải chăng bởi tại chính con người coi nó là đẹp? Con người đã nhân loại hoá thế giới: tất cả chỉ có vậy. Nhưng không có gì, tuyệt đối không có gì đảm bảo cho chúng ta rằng con người chính là khuôn mẫu của cái đẹp. Ai biết được trông hắn giống cái gì trong cặp mắt của một phán quan thẩm mĩ siêu đẳng hơn? Có lẽ hắn là một kẻ hơi hợm mình? Có lẽ hơi tức cười? Có lẽ hơi độc đoán?... “Ôi thần Dionysos, tại sao lại beo tai em như vậy?” Ariane một hôm hỏi người tình triết gia của nàng trong một trong những đối thoại nổi tiếng về Naxos như vậy. “Tôi thấy tai em hơi tức cười, Ariane: tại sao nó lại không dài hơn một chút nữa nhỉ?”.
20.
Không có gì đẹp, chỉ có con người là đẹp: tất cả mọi thẩm mĩ học đều dựa trên sự ngây thơ này, đó là chân lí thứ nhất. Chúng ta hãy thêm ngay chân lí thứ hai: không có gì xấu ngoài con người sa đoạ - lãnh vực của những phán xét thẩm mĩ đã được qui định bằng hai chân lí đó. - Xét về phương diện sinh lí, bất cứ cái gì xấu đều làm con người suy nhược và buồn rầu. Nó nhắc nhở con người tới sự suy đồi, nguy hiểm, bất lực; con người hao tốn sức lực khi đối diện với nó. Người ta có thể đo được hiệu quả của cái xấu bằng lực kế. Tóm lại, bất cứ khi nào con người cảm thấy yếu đuối thì đó là dấu hiệu chứng tỏ nó cảm thấy một cái gì “xấu” đang cận kề. Cảm thức về sức mạnh, ý chí hùng dũng, lòng can đảm, sự kiêu hãnh - tất cả xuống thấp với cái xấu xa, lên cao với cái đẹp… Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều có thể rút ra kết luận này: những tiền đề của chúng được tích chứa dồi dào trong bản năng. Cái xấu được coi như một dấu hiệu và một triệu chứng của suy đồi: cái gì nhắc nhở chúng ta, dù một cách xa xôi, tới sự suy đồi đều gây ra trong chúng ta phán đoán “xấu”. Bất cứ một dấu hiệu bải hoải, nặng nề, già nua, mệt mỏi nào, bất cứ sự câu thúc nào, như sự co quắp, tê liệt, nhất là mùi vị, mầu sắc, hình thể của băng hoại, tan rã, dù chỉ giảm xuống đến độ chỉ còn là một biểu tượng đi chăng nữa - tất cả đều gây ra cùng một phản ứng, phán đoán “xấu”. Một sự thù ghét nổi lên tại đây: nhưng con người ghét cái gì? Không còn hồ nghi gì nữa: sự suy đồi của chủng loại nó. Ở đây, sự thù ghét của nó bắt nguồn từ bản năng chủng loại sâu thẳm nhất của nó, trong sự thù ghét này có sự kinh sợ, thận trọng, chiều sâu, sự thấu suốt - đó chính là sự thù ghét thâm sâu nhất. Chính bởi lẽ đó mà nghệ thuật sâu xa…
21.
Schopenhauer. - Schopenhauer, người Đức đáng kể cuối cùng (- người tượng trưng cho một biến cố Âu Châu, như Goethe, như Hegel, như Henrich Heine, chứ không phải chỉ như một biến cố địa phương, “quốc gia” mà thôi), là một trường hợp thượng đẳng đối với một tâm lí gia: tôi muốn nói như một toan tính khôn ngoan thiên tài viện dẫn những lời khẩn nguyện đối nghịch, nhằm hỗ trợ cho một cuộc hạ giá cuộc đời một cách toàn triệt và theo quan điểm hư vô chủ nghĩa: sự tự khẳng định vĩ đại của “ý chí sống” những hình thức phong phú của cuộc đời. Ông đã lần lượt diễn dịch nghệ thuật, lòng anh hùng, thiên tài, vẻ đẹp, lòng đại từ bi, trí thức, ý chí tìm chân lí, bi kịch, như những hậu quả của sự “phủ nhận” hay nhu cầu phủ nhận của “ý chí” - vụ làm bạc giả tâm lí lớn nhất lịch sử, trừ Kitô giáo. Nhìn gần ông chỉ là kẻ thừa kế của lối diễn dịch Kitô giáo: có điều ông biết cách chấp thuận cái mà Kitô giáo đã khước từ, những sự kiện văn hoá vĩ đại của nhân loại, và chấp thuận chúng theo một quan điểm Kitô, nghĩa là hư vô chủ nghĩa (- nghĩa là ưng chuẩn chúng như những con đường “cứu chuộc”, như những kích thích của nhu cầu “cứu chuộc…”)
22.
Tôi lấy một trường hợp cá biệt. Schopenhauer nói về cái đẹp với một sự hăng say sầu thảm. - Tại sao vậy? Bởi ông nhìn thấy trong đó một cây cầu trên đó người ta có thể đi xa hay trên đó người ta khao khát đi xa… Đối với ông vẻ đẹp là sự giải thoát khỏi “ý chí” trong giây lát - nó lôi cuốn về phía giải thoát vĩnh viễn… Đặc biệt ông ca tụng nó như đấng cứu chuộc khỏi “trung tâm điểm của ý chí”, khỏi nhục tình - trong cái đẹp ông thấy sự phủ nhận xung lực hướng về sự sinh đẻ… Thật là một vị thánh kì dị! Thế nào cũng có kẻ nói ngược lại ông và tôi e rằng đó là thiên nhiên. Vẻ đẹp có trong những âm thanh, mầu sắc, hương thơm, những chuyển động nhijp nhàng của thiên nhiên hướng về cứu cánh nào? Cái gì khiến vẻ đẹp đó hiển lộ? - May mắn thay có một triết gia cũng nói ngược lại ông. Đấng thần linh Platon (chính Schopenhauer gọi như vậy) uy tín ngất trời đã chủ trương một thuyết nghịch lại: một vẻ đẹp khêu gợi, xúi dục sự sinh đẻ - đó chính là hiệu quả đặc biệt của nó, từ cõi miền nhục cảm thấp nhất tới cõi tâm linh cao siêu nhất.
23.
Platon đi xa hơn nữa. Ông nói với sự ngây thơ mà phải là người Hy Lạp chứ không thể là người “Kitô giáo” mới có thể có được, rằng sẽ không thể có mảy may triết lí Platon nào nếu không có những trai tráng xinh đẹp như vậy ở thành phố Nhã Điển: chính khi nhìn thấy họ mà tâm hồn triết gia bay bổng vào cõi mộng tình ngây ngất và không thể an nghỉ cho đến khi nó reo rắc hạt mầm của mọi sự cao siêu vào lòng mảnh đất quá đẹp tươi như thế. Thêm một bậc thánh kì dị nữa - người ta không thể tin tai mình, dù giả thử rằng người ta tin Platon. Ít ra người ta thấy rằng ở Nhã Điển họ triết lí một cách khác hẳn, nhất là trong quần chúng. Không có gì ít tính chất Hy Lạp hơn là ngồi trong xó dệt một cái lưới nhện khái niệm, amor intellectualis dei [30] theo kiểu Spinoza. Triết lí theo kiểu Platon đúng ra phải được định nghĩa như một cuộc tranh biện dâm dật, như một sự khai triển và đào sâu của môn thể dục cổ điển và những điều kiện tiên quyết của nó… Cái gì cuối cùng nẩy sinh ra từ cái dâm triết lí của Platon? Một hình thức nghệ thuật mới của cổ Hy Lạp: biện chứng pháp. Tôi nhắc thêm, chống lại Schopenhauer và để tôn vinh Platon: tất cả mọi nền văn hoá và văn chương cao siêu của nước Pháp cổ điển đều nảy nở trên mảnh đất dục tình. Ở đây người ta có thể tìm thấy khắp chốn sự hào hoa, nhục cảm, sự tranh đua thư hùng, “đàn bà”, - người ta sẽ không bao giờ tìm kiếm vô ích…
21.
L’art pour l’art [31] .- Sự chống đối cứu cánh trong nghệ thuật bao giờ cũng là sự chống đối khuynh hướng đạo đức hoá [32] trong nghệ thuật, chống đối sự lệ thuộc của nghệ thuật vào đạo đức, L’art pour l’art có nghĩa là: “Thây kệ luân lí” - nhưng chính sự thù nghịch này tố cáo rằng thành kiến luân lí hãy còn giữ phần ưu thắng. Khi người ta khai trừ khỏi nghệ thuật mục đích giảng dạy luân lí và cải thiện con người thì không nhất thiết nghệ thuật phải vô mục đích và không có một ý nghĩa nào, tóm lại, l’art pour l’art - một con rắn cắn đuôi chính nó. “Không có một mục đích nào cả tốt hơn là có một mục đích đạo đức!”, đam mê thuần tuý nói như vậy. Một tâm lí gia hỏi ngược lại: tất cả mọi thứ nghệ thuật dùng để làm gì? nó không ca tụng sao? không tán dương sao? không lựa chọn sao? không tỏ lòng yêu quí sao? khi làm thế nó sẽ làm mạnh hay làm yếu đi một số sự thẩm định giá trị… Đó là một cái gì thứ yếu? một sự tình cờ? một cái gì bản năng của nghệ sĩ không tham dự vào chút nào? hay nó không phải là điều kiện tiên quyết cho phép người nghệ sĩ là nghệ sĩ?... Bản năng sâu xa nhất của nghệ sĩ có hướng về nghệ thuật hay đúng hơn về ý nghĩa của nghệ thuật, về cuộc đời, về lòng khao khát cuộc đời? - Nghệ thuật là sự kích thích mãnh liệt hướng về cuộc đời: tại sao người ta có thể coi nó như vô mục đích, nhưl’art pour l’art? - Vẫn còn lại một câu hỏi phải giải đáp: nghệ thuật còn đưa ra ánh sáng nhiều cái xấu xí, cay đắng, hồ nghi trong cuộc đời - chẳng phải vì thế mà nó khiến cho cuộc đời trở nên nhọc nhằn sao? - Và quả thực có những triết gia đem gán cho nghệ thuật ý nghĩa đó: “giải thoát khỏi ý chí” đó là tất cả đối tượng của nghệ thuật theo lời dạy của Schopenhauer, “khiến người ta nhẫn nhục”, đó là lợi ích lớn lao của bi kịch mà ông đề cao. - Nhưng điều này - như tôi đã cho thấy từ trước - là quan điểm và “ác nhãn” của người bi quan. Người nghệ sĩ bi thảm truyền đạt điều gì tới những kẻ khác? Hắn không diễn tả thái độ vô uý trước tất cả những gì khủng khiếp và hồ nghi sao? - chính thái độ này là một điều đáng mơ ước vô cùng: kẻ nào hiểu đều cung kính tôn vinh nó trên tất cả mọi sự. Người nghệ sĩ truyền đạt điều này, phảitruyền đạt điều này nếu hắn là nghệ sĩ, một thiên tài trong nghệ thuật cảm thông. Lòng dũng cảm và bình tĩnh trước kẻ thù hùng mạnh, trước bất hạnh tày trời, trước một vấn đề đầy kinh hoàng - chính thái độ chiến thắng này người nghệ sĩ lựa chọn, ca ngợi. Trước bi kịch, tính hiếu chiến trong tâm hồn chúng ta cử hành những cuộc tế lễ linh đình; kẻ nào tìm kiếm đau khổ, con người anh hùng, tán dương cuộc đời mình bằng bi kịch, - chỉ riêng đối với kẻ đó thôi, người nghệ sĩ bi tráng mới dâng tặng chén tàn bạo ngọt ngào tuyệt vời này. -
25.
Chịu đựng mọi người, mở rộng cửa với tất cả tâm hồn - đó là lòng quảng đại, nhưng chỉ là lòng quảng đại phóng khoáng mà thôi, người ta biết có những tâm hồn hiếu khách cao sang trướng rủ rèm buông: họ để trống những căn phòng tốt nhất. Tại sao vậy? - Bởi vì họ chờ đợi những quí khách mà họ không phải “chịu đựng”…
26.
Chúng ta không tôn trọng mình lắm khi chúng ta thổ lộ mình. Những kinh nghiệm riêng tư đích thực của chúng ta không có nhiều lời. Dù những kinh nghiệm ấy có muốn thổ lộ mình đi chăng nữa cũng không thể được. Ấy là bởi tại chúng ta thiếu lời. Chúng ta đã ở trên bất cứ điều gì mà chúng ta có thể diễn tả bằng ngôn từ. Trong tất cả mọi câu chuyện đều có một chút khinh bỉ. Dường như ngôn ngữ chỉ được tạo ra cho những cái tầm thường, trung bình, có thể thông tri được. Bằng ngôn ngữ, người nói đã tầm thường hoá mình đi ngay khi nói.- Trích luân lí dành cho những kẻ câm điếc và những triết gia khác [33] . -
27.
“Bức tranh này đẹp mê hồn!”… [34] người đàn bà chuộng văn chương, bất mãn, bứt rứt, trong tâm hồn và ruột gan, trống trải, tò mò lắng nghe từng phút, một cách đau đớn, cái mệnh lệnh từ cơ thể sâu kín của nàng thì thầm: “aut liberi aut libri [35] : người đàn bà văn chương học hành đủ để nghe tiếng nói của thiên nhiên, dù cho khi nó nói bằng tiếng Latin, tuy nhiên khá kiêu căng, rỗng tuếch, khá đần độn như ngan ngỗng để bí mật nói thì thầm với mình bằng tiếng Pháp: “je me verrai, je me lirai, je m’extasierai et me dirai: Possible, que j’aie eut tant d’esprit?” [36] …
28.
Những kẻ “vô ngã” nói. - “Đối với chúng ta, không có gì dễ hơn là trở nên khôn ngoan, kiên nhẫn, cao cả. Chúng ta xem xét tỉ mỉ với dầu mỡ bao dung và thiện cảm, chúng ta đẩy công lí đến chỗ phi lí, chúng ta tha thứ cho tất cả. Chính vì thế thỉnh thoảng chúng ta phải nuôi dưỡng một chút đam mê nhỏ, một chút tật xấu nhục tình. Điều đó có thể cực nhọc đối với chúng ta; và khi quây quần thân mật chỉ có chúng ta thôi, có thể chúng ta sẽ cười dáng vẻ bề ngoài ta có vì lẽ đó. Nhưng để làm gì? chúng ta không còn cách nào khác hơn là để tự vượt qua chúng ta: đó là sự khổ hạnh của chúng ta, khổ hình của chúng ta… Trở nên vô ngã - đức hạnh của những kẻ “vô ngã”…
29.
Từ một cuộc thi tiến sĩ. - “Sứ mệnh của tất cả mọi nền giáo dục cao đẳng là gì?” - Là biến con người thành một cái máy. - “Bằng cách nào?” - Phải dạy con người buồn chán. - “Làm thế nào để đạt được điều đó?”- Bằng ý niệm bổn phận.- “Ai là gương mẫu của nó?” - Nhà ngữ học: hắn dạy cách nhá [37] . - “Ai là con người hoàn toàn?” - Công chức nhà nước. - “Triết học nào cho người công chức nhà nước công thức tốt nhất?” - Triết học của Kant: người công chức nhà nước với tư cách vật tự nội đặt trên người công chức nhà nước với tư cách hiện tượng. -
30.
Quyền ngu ngốc. - Người công nhân mệt mỏi, hơi thở chậm rãi, mắt nhìn dịu dàng, để sự vật tự do lưu chuyển: nhân vật điển hình này, mà ngày nay, trong Thời Đại của Lao Động (và của “Reich”! nữa -) người ta gặp trong mọi giai cấp xã hội đang đòi hỏi nghệ thuật, gồm cả sách vở và, trước hết, báo chí - nhất là vẻ đẹp của thiên nhiên Ý Đại Lợi chẳng hạn… Con người của buổi tối, vói “những bản năng man rợ ngủ say” [38] mà Faust nói, con người này cần dưỡng sức, tắm biển, trượt băng, Beyreuth [39] … Trong những thời đại như thời đại của chúng ta, nghệ thuật có quyền hoàn toàn điên khùng [40] như một thứ nghỉ hè của tinh thần, trí tuệ và cảm giác. Wagner hiểu điều đó. Sự điên khùng hoàn toàn là liều thuốc bổ…
[1]Nietzsche dùng chữ này đầu tiên trong “Phổ hệ luân lí”, chỉ những con người hùng mạnh cao quí như những anh hùng của Homère, những hải tặc Viking - Ghi chú của Dịch giả.
[2]Giai cấp hạ lưu ngoài lề xã hội - G.c.D.
[3]Môi nhỏ. - G.c.D.
[4]Sự xảo trá thành tín - G.c.D.
[5]Trong sự nhơ nhớp tự nhiên.
[6]Der Trompeter von Sackingan, tác phẩm nổi tiếng của Joseph Victor von Scheffel. - G.c.D.
[7]Sữa dồi dào
[8]Con bò sữa “đẹp mã”
[9]Anh em Goncourt
[10]Pháp văn trong nguyên bản: khoa học và quí phái. - G.c.D.
[11]Pháp văn trong nguyên bản: phúc âm của những kẻ bần cùng. - G.c.D.
[12]Pháp văn trong nguyên bản: xoi mói, dèm pha
[13]Pháp văn trong nguyên bản: lòng hờn oán, hiềm khích
[14]Pháp văn trong nguyên bản: phong trào hay chủ trương lãng mạn
[15]Pháp văn trong nguyên bản: kẻ (sự) phóng túng, vô kỉ luật, vô tôn giáo
[16]Gương Chúa Jesus, tác phẩm nổi tiếng của Thomas à Kempis (1379 – 1471)
[17]Nghĩa đen: mà không cảm thấy một sự đối kháng sinh lí (ohne einen physiologischen Widerstand).
[18]das Ewig-Weibliche, một trong những câu thơ cuối cùng trong tác phẩm Faust của Goethe (“Người nữ đời đời kéo chúng ta lên cao), đối tượng chế giễu của Nietzsche.
[19]Pháp văn trong nguyên bản: kiểu Eliot
[20]Pháp văn trong nguyên bản: sự kiện nhỏ nhặt
[21]Homospathische hay là phép lấy bệnh trị bệnh
[22]Nói ừ, sagen ja là thuật ngữ Nietzsche dùng để chỉ thái độ khẳng định tích cực đối với cuộc đời của kẻ chấp nhận cuộc đời với tất cả những gì kinh khủng, bi đát nhất của nó, một dionysien, tín đồ của Dionysos - kẻ khẳng định vĩ đại.
[23]Trong Sự khai sinh của bi kịch. - G.c.D.
[24]Tôi chính là kẻ kế vị tôi. - G.c.D.
[25]“Mặc dù thiếu sức mạnh, nhưng dục vọng thì thực đáng khen.”
[26]Kinh tế học gia người Anh (1766- 1834), chủ trương hạn chế nhân khẩu. - G.c.D.
[27]Nietzsche đổi lại câu cuối cùng bài Ein fester Burg của Lutther, đại ý: những gì thuộc về trần gian này hãy ra đi, ở lại những gì thuộc về Reich, nước thiên đàng. - G.c.D.
[28]Menschenkenner
[29]Nguyên văn: một kẻ miệt thị con người - Menschen-Verächter - G.c.D.
[30]“Tình yêu Thượng đế bằng tinh thần”. - G.c.D.
[31]Pháp văn trong nguyên bản: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”.
[32]Tức chủ trương “văn dĩ tải đạo”. - G.c.D.
[33]So sánh Lão Tử: “Đạo khả Đạo, phi thường Đạo. Danh khả Danh, phi thường Danh”, “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” và Héraclite: “Kẻ im lặng bao giờ cũng đẹp.”
[34]Dòng mở đầu nhạc khúc: “Tiếng sáo mê hồn” của Mozart.
[35]Trẻ con hay sách vở. - G.c.D.
[36]Tôi sẽ thấy chính tôi, ta sẽ đọc tôi, tôi sẽ xuất thần và tôi sẽ nói: Có thể tôi có nhiều tinh thần đến thế kia ư?- Galiani: thư gửi bà Épinay ngày 18 tháng 9 năm 1709. Nguyên văn không có dấu phết sau chữ Possible - G.c.D.
[37]Nguyên tác: ochsen: làm việc siêng năng vất vả, còn có nghĩa là học hành chuyên cần, học gạo. - G.c.D.
[38]Lấy trong câu thơ của Goethe: “Entschlafen sind nun wilde Triebe” (Faust, Hồi I, cảnh 3.)
[39]Nơi Wagner ở, thỉnh thoảng có tổ chức hoà nhạc.
[40]Parsifal, nhân vật chính trong vở nhạc kịch cuối cùng của Wagner được mô tả như một kẻ trong trắng, thuần khiết, điên khùng (reine Tor), Nietzsche cho câu truyện Parsifal là phi lí và dùng chữ reine Torheit (thuần tuý điên) theo nghĩa hoàn toàn điên. - G.c.D.
1.
Người ta biết điều tôi đòi hỏi nơi những triết gia: họ phải đặt mình bên kia thiện ác, - họ phải đặt ảo tưởng về phán đoán luân lí bên dưới họ. Sự đòi hỏi này là kết quả của một cuộc khảo sát mà tôi phát biểu lần thứ nhất: tôi đi tới chỗ kết luận rằng: không hề có những sự kiện luân lí. Phán đoán luân lí đồng ý với phán đoán tôn giáo trong sự tin tưởng vào những thực tại không có. Luân lí chỉ là một sự diễn giải một số những hiện tượng nào đó, nhưng là một sự diễn giải sai lầm. Phán đoán luân lí, hệt như phán đoán tôn giáo, thuộc về một bình diện ngu dốt nơi ý niệm về thực tại, sự phân biệt giữa thực và mộng tưởng chưa có: đến nỗi rằng, trên một bình diện tương tự, “chân lí” chỉ biểu thị những sự vật mà ngày nay chúng ta gọi là “tưởng tượng”. Đó là lí do tại sao phán đoán luân lí không bao giờ được coi là đứng đắn cả: như thế bao giờ nó cũng chỉ chứa đựng cái vô nghĩa. Nhưng, như một lí thuyết về kí hiệu, nó có một giá trị vô cùng quí báu: nó phát hiện, ít nhất cho những người hiểu biết, những thực tại quí giá nhất của những nền văn hóa và những thế giới bên trong chưa hiểu biết đủ để tự “hiểu” mình. Luân lí chỉ là ngôn ngữ của những dấu hiệu, một triệu chứng học, người ta phải biết trước nó chỉ cái gì để có thể rút lợi ích từ đó.
2.
Đây là thí dụ thứ nhất, hoàn toàn có tính cách tạm thời. Bất cứ thời nào người ta cũng muốn “cải thiện” con người cả: chính cái đó, trước hết, được gọi là luân lí. Nhưng dưới cùng một danh từ có thể ẩn dấu nhiều khuynh hướng khác biệt nhau nhất. Sự thuần hoá con vật người cũng như sự nuôi nấng một loại người nào đó đều có thể gọi là sự “cải thiện” được cả: chỉ có những danh từ thuộc về động vật học mới chỉ đúng những thực tại, - nhưng đó là những thực tại mà “kẻ cải thiện”, những giáo sĩ, quả thực, không biết gì cả, - không muốn biết gì cả… Gọi là “cải thiện” sự thuần hoá của một con vật, đối với lỗ tai của chúng ta nó hầu như một lời đùa cợt. Ai biết được điều xảy ra trong những chuồng thú, nhưng tôi không tin con vật được “cải thiện” ở đấy. Người ta làm yếu nó đi, người ta làm nó trở nên bớt nguy hiểm, bởi cảm thức suy nhược tinh thần của sự sợ hãi, bởi đau đớn, bởi sỉ nhục, bởi đói khát, người ta khiến nó thành con vật ốm đau bệnh hoạn - Chẳng khác gì con người thuần thục mà những giáo sĩ đã “cải thiện”. Trong những năm đầu thời Trung Cổ, khi Giáo Hội trước hết là một chuồng thú, khắp nơi người ta tổ chức những cuộc săn những loại thú “tóc vàng” đẹp đẽ nhất [1] - người ta “cải thiện” những dân Nhật Nhĩ Man quí phái chẳng hạn. Nhưng sau đó một kẻ dòng Nhật Nhĩ Man trông ra sao khi đã được “cải thiện” và đưa vào tu viện? Nó có vẻ như một bức hí hoạ của con người, một sự sa sẩy: người ta đã làm nó thành một kẻ “phạm tội”, nó bị nhốt trong lồng, người ta đã nhốt nó trong những khái niệm khủng khiếp… nó nằm đó, đau ốm, khốn khổ, lòng đầy hờn oán đối với chính mình; đầy thù hận đối với những bản năng hướng về đời sống, đầy nghi ngờ tất cả những gì còn khoẻ mạnh và sung sướng. Tóm lại, nó là một “tín đồ Kitô giáo”… Nói theo danh từ sinh lí học: trong trận đấu với mãnh thú, làm nó bệnh hoạn có thể là cách duy nhất làm nó yếu đi. Đó là điều Giáo Hội đã hiểu: Giáo Hội đã làm hư hỏng con người, Giáo Hội đã làm nó suy yếu đi - nhưng Giáo Hội lớn tiếng tuyên bố đã “cải thiện” con người…
3.
Chúng ta hãy xét một trường hợp khác của cái tự nhận là luân lí, trường hợp nuôi dưỡng một chủng loại đặc biệt nào đó. Thí dụ hùng vĩ nhất được cung hiến bởi luân lí Ấn Độ, được tôn giáo chuẩn nhận, là “Luật Manu”. Ở đây người ta đặt ra vấn đề phải nuôi không dưới bốn giai cấp cùng một lúc. Một giai cấp tăng lữ, một giai cấp chiến sĩ, một giai cấp thương gia và làm ruộng, và cuối cùng một giai cấp tôi tớ, giai cấp Sudra. Hiển nhiên ở đây chúng không có ở giữa đám người dậy thú nữa: một loại người một trăm lần dịu dàng và biết lẽ phải là điều kiện tiên quyết để đi tới chỗ quan niệm chương trình nuôi dưỡng như vậy. Người ta thở một hơi dài tự do khi ra khỏi bầu không khí Kitô giáo, bầu không khí của bệnh viện và của ngục tù, vào trong một thế giới lành mạnh hơn, cao ráo hơn và rộng rãi hơn? Tân Ước nghèo nàn xiết bao khi so với Manu và nó nặng mùi xiết bao! - Nhưng chính sự tổ chức này cũng cần phải khủng khiếp, - lần này không phải với dã thú mà với phản đề của nó với con người không được nuôi dưỡng, con người tạp nhạp, giai cấp Tchândâla [2] . Và lại một lần nữa nó không có cách gì làm yếu và vô hại hơn là cách làm cho nó bệnh hoạn - đó là cuộc tranh đấu với “đại đa số”. Có lẽ không có gì xúc phạm tình cảm của chúng ta cho bằng những biện pháp phòng ngừa của luân lí Ấn Độ. Sắc lệnh thứ ba chẳng hạn (Avadhna - sastra I) sắc lệnh về “rau cỏ nhơ bẩn” phán quyết rằng thực phẩm duy nhất dành cho giai cấp Tchândâla là hành và tỏi, nhân vì Thánh Kinh cấm cho họ mễ cốc hay trái cây có hạt hoặc nước hay lửa. Cũng sắc lệnh đó phán quyết rằng nước mà họ cần dùng không được lấy từ sông hay suối hoặc ao hồ, mà chỉ được lấy từ đầm lầy và những vũng nước chân thú vật. Họ còn không được phép giặt giũ quần áo và tắm rửa bởi vì nước họ được ban cho vì nhân đạo chỉ được dùng với mục đích duy nhất là giải khát. Sau cùng, những phụ nhữ Sudra không được phép giúp đỡ những phụ nhữ Tchândâla khi sinh đẻ, và những người phụ nữ sau này cũng không được phép giúp đỡ lẫn nhau… - Kết quả của những qui tắc vệ sinh này thấy rõ ngay: bệnh dịch chết người, bệnh phong tình ghê khiếp và như hậu quả của nó, một lần nữa “luật của lưỡi dao”, ban lệnh cắt bao bì qui đầu của những đứa bé trai và cắt bỏ labia minora [3] của những đứa bé gái. - Chính Manu nói: “Giai cấp Tchândâla là kết quả của ngoại tình, loạn luân và tội ác” (- đó là hậu quả thiết yếu của ý tưởng nuôi dưỡng). Quần áo chúng chỉ là những giẻ rách lấy từ những xác chết, chén bát là những bình, hũ bể, đồ trang sức là sắt gỉ, và ma quỉ là đối tượng thờ phượng của chúng; chúng phải đi lang thang hết nơi này tới nơi khác, không được nghỉ ngơi. Chúng không được viết từ trái sang phải và viết bằng tay phải; sự sử dụng tay phải và viết từ trái sang phải dành cho những người đức hạnh, cho những người thuộcchủng tộc cao quí.
4.
Những qui tắc này khá rõ ràng: qua chúng, ta thấy nhân tính của dòng Aryan, hoàn toàn sơ khai, chúng ta thấy ý tưởng “huyết thống tinh tuý” là sự ngược lại của một ý tưởng vô hại. Trái lại, nó trở nên rõ rệt trong dân tộc nào sự thù hận, sự thù hận giai cấp Tchândâla đối với “nhân tính” này đã được bất tử hoá, nơi nó đã trở thànhthần thánh… Từ quan điểm này, Phúc Âm là những tài liệu thượng hạng; Sách của Enoch còn hơn thế nữa. - Kitô giáo nẩy sinh từ gốc rễ Do Thái, chỉ có thể hiểu được như sản phẩm của mảnh đất, trình bầy sự phản động chống lại luân lí nuôi dưỡng, dòng giống, đặc ân - đó là tôn giáo - chống lại Aryan đệ nhất: Kitô giáo, là sự đảo hoán mọi giá trị Aryan, sự chiến thắng của những giá trị Tchândâla, Phúc Âm giảng cho dân nghèo và hạ tiện, sự nổi loạn tập thể của tất cả những kẻ bị chà đạp, những kẻ bần cùng, xấu hổ, bạc phước chống lại “dòng giống”, - sự trả thù vĩnh viễn của giai cấp Tchâdâla trở thành tôn giáo của tình yêu…
5.
Luân lí của sự nuôi dưỡng và luân lí của sự thuần hoá vô cùng giá trị bởi những phương tiện chúng dùng để đạt tới cứu cánh, chúng ta có thể thiết định như qui luật thứ nhất của chúng ta rằng để làm ra luân lí, người ta phải có ý muốn vô điều kiện cái nghịch lại. Đó là vấn đề lớn lao, vấn đề kì quái mà tôi đeo đuổi từ lâu: tâm lý: của “những kẻ muốn cái thiện” nhân loại. Một sự kiện nhỏ và khá khiêm tốn, sự kiện tự nhận là pia fraus [4] , đã mở cho tôi lối vào đầu tiên vấn đề này: pia fraus, di sản của tất cả những triết gia và giáo sĩ đã “cải thiện” nhân loại. Cả Manu lẫn Platon, cả Khổng Tử lẫn những giáo phụ Do Thái và Kitô giáo, chẳng người nào nghi ngờ quyền nói láo của họ. Họ cũng chẳng nghi ngờ nhiều quyền khác nữa của họ… Nếu muốn diễn tả thành định thức, người ta có thể nói: tất cả mọi phương tiện từ xưa tới nay được dùng nhằm mục đích làm cho con người đạo đức đều hoàn toàn vô luân. –
Những cuộc ngao du của con người phi thời
1.
Những bất khả của tôi. - Sénéque: hay kẻ đấu bò của đức hạnh. - Rousseau: hay sự trở về thiên nhiên in impuris naturalibus [5] . - Schiller: hay kẻ gióng Trống khua Chiêng - Đạo đức ở Sackingan [6] .- Dante: hay con lang làm thơ trong mộ. - Kant: hay sự lễ độ giả dối như đặc tính trí tuệ. - Victor Hugo: hay đèn pha của đại dương phi lí. - Listz: hay thiên tài âm nhạc - bên đàn bà. - George Sand: hay lactea uberta [7] nói theo tiếng Đức: die Milchkuh mit “schonem Stil” [8] . - Michelet: hay sự hăng say đã cởi áo khoác ngoài. - Carlyle: hay chủ trương bi quan như sự tiêu hoá trì trệ. - John Stuard Mill: hay sự minh bạch tổn thương. - Les frères de Goncourt [9] : hay hai tên Ajax chiến đấu chống lại Homène. Nhạc của Offenbach. Zola: hay “thú phóng uế”.
2.
RENAN. - Thần học, hay là sự đồi bại của lí trí bởi “tội tổ tông” (Cơ đốc giáo). Bằng chứng: Renan, kẻ bất cứ khi nào phải liều lĩnh đưa ra một tiếng phải hay không về một vấn đề thông thường, đều sai trật với một sự tuân thủ theo đúng kỉ luật một e dè thận trọng kiểu thầy dòng. Chẳng hạn ông ta muốn nối kết chặt chẽ la sciencevà la noblesse [10] lại với nhau; nhưng khoa học thuộc về chế độ dân chủ, điều đó quá hiển nhiên. Ông ta muốn trình bày không phải không có tham vọng, một sự quí phái tinh thần; nhưng đồng thời ông quì trước lí thuyết đối nghịch, évangile des humbles [11] và không phải chỉ quì gối mà thôi… Làm gì bằng tất cả những tinh thần tự do, tân tiến, tất cả sự diễu cợt, tất cả sự thay đổi địa vị một cách mềm mỏng, uyển chuyển đó, khi tận đáy lòng, người ta vẫn là tín đồ Cơ Đốc, Kitô giáo và ngay cả linh mục nữa? Renan có tài tìm tòi những sáng kiến để hấp dẫn, giống như một giáo sĩ dòng Gia Tô hội hay một linh mục chuyên nghe xưng tội; tinh thần ông không thiếu nụ cười nhân hậu giả dối rộng mở của thầy dòng - giống như tất cả những linh mục, ông ta chỉ trở nên nguy hiểm khi ông ta yêu. Không ai có thể sánh được với ông trong cách yêu quí chết người. Cái tinh thần này của Renan, một tinh thần bạc nhược, là một tai ương thêm vào cho nước Pháp bệnh hoạn đáng thương, ý chí suy vi. -
3.
SAINTE-BEUVE. - Không có chút đàn ông tính nào trong ông ta; ông ta đầy lòng thù hận nhỏ nhen đối với tất cả những tinh thần hùng tráng. Ông ta lang thang đây đó tinh tế, tò mò, chán chường tọc mạch - một người đàn bà tại căn đế, với những sự trả thù của đàn bà và nhục cảm đàn bà. Là một tâm lí gia, ông ta là thiên tàimédisance [12] ; khả năng khai thác chuyện dèm xiểm bất tận, không ai biết cách pha trộn độc dược với lời tán dương giỏi hơn. Những bản năng hạ đẳng của ông ta đều hạ lưu và bà con gần gũi với tính resentiment [13] ; của Rousseau: do đó ông ta là một kẻ theo phong trào lãng mạn, - bởi dưới mọi romantisme [14] đều có bản năng trả thù của Rousseau chầu chực, rình mò. Ông ta là một nhà cách mạng, nhưng dằn nén quá kĩ vì sợ hãi. Không độc lập trước tất cả những gì có sức mạnh (dư luận, hàn lâm viện, triều đình, ngay cả Port royal). Bực tức chống lại tất cả những gì vĩ đại trong người và sự vật, chống lại tất cả những gì tự tin nơi mình. Đủ là một thi sĩ và nửa - đàn bà để cảm thức sức mạnh của những gì vĩ đại; không ngừng co rúm như con sâu trong tục ngữ bởi ông ta luôn luôn cảm thấy bị chà đạp dưới gót chân. Là một nhà phê bình, ông ta không có tiêu chuẩn phê phán, không tiêu chuẩn hướng dẫn và không xương sống. Mặt dầu ông ta có miệng lưỡi của một libertin [15]quốc tế nhưng lại thếu can đảm nhìn nhận libertinage của mình. Là một nhà sử học không có triết lí, không có sức mạnh của viễn quan triết lí, - chính vì lí do đó ông khước từ trách nhiệm phê phán trong tất cả những vấn đề quan yếu, bằng cách dùng “khách quan tính” như một cái mặt nạ. Tuy nhiên ông ta có một thái độ khác hẳn trước những sự vật mà trong đó năng khiếu tinh tế và lão luyện là tối cao pháp viện: ở đó ông ta có cản đảm và thích thú là chính mình, - ở đó ông là bậc thầy. - Về một vài phương diện, đó là một kiểu mẫu đầu tiên của Baudelaire.
4.
IMITATIO CHRIST [16] là một trong những cuốn sách tôi không thể cầm mà không cảm thấy gớm tay [17] : nó toát ra một mùi người nữ vĩnh cửu [18] mà người ta phải là dân Pháp - hay là một tín đồ của Wagner mới chịu nổi… Ông thánh này có một lối nói về tình yêu khiến cho ngay cả những người đàn bà Paris cũng phải hiếu kì. - Người ta nói với tôi rằng A. Comte, tu sĩ dòng Gia Tô hội quỉ quyệt nhất, kẻ muốn dẫn dắt dân Pháp tới La Mã qua sự ngoắt ngoéo của khoa học, hứng khởi từ cuốn sách này. Tôi tin điều đó: “Tôn giáo của trái tim”…
5.
G. ELIOT. - Họ đã giải thoát khỏi Thượng Đế Kitô giáo và bây giờ họ cảm thấy phải bám lấy luân lí Kitô giáo chặt chẽ hơn bao giờ hết. Đó là cách lí luận kiểu Ăng lê, chúng ta không muốn nhạo báng những thứ luân lí - đàn bà à la Eliot [19] . Ở Anh, bất cứ một sự thoát li thần học nhỏ nhoi nào, người ta cũng phải hồi phục lại danh dự bằng cách khủng khiếp nhất là trở thành một kẻ cuồng tín luân lí. Đó là cách giải tội ở xứ này. - Với chúng ta lại khác hẳn. Nếu người ta khước từ đức tin Kitô giáo là người ta đồng thời tự bãi bỏ quyền hạn đối với luân lí Kitô. Bởi vì luân lí này không tự nó minh nhiên: điều này cần soi sáng lại luôn luôn mặc dầu đầu óc nông cạn của dân Anh. Kitô giáo là một hệ thống, một ý tưởng thống nhất và một quan niệm toàn bộ về sự vật. Nếu người ta phá bỏ một khái niệm căn bản chủ yếu, niềm tin vào Thượng Đế, là người ta phá tan cả một toàn thể: người ta chẳng có một chút cốt tuỷ nào trong tay nữa hết. Kitô giáo giả thiết rằng con người không biết gì cả, không thể biết cái gì tốt, cái gì xấu đối với mình: hắn tin tưởng vào Thượng Đế, đấng duy nhất hiểu biết. Luân lí Kitô giáo là một huấn giới; nguồn gốc của nó là siêu việt; nó ở trên mọi phê bình, mọi quyền phê bình, nó chỉ chứa đựng chân lí nếu Thượng Đế là chân lí - nó đứng vững hay sụp đổ với niềm tin vào Thượng Đế. - Nếu người Anh thực sự tin rằng tự họ hiểu biết bằng “trực giác”, thế nào là thiện, thế nào là ác, nếu do đó họ nghĩ rằng họ không cần Thượng Đế như một đảm bảo cho luân lí nữa, thì đó chỉ là hậu quả của quyền tối thượng của sự thẩm định Kitô giáo và là một bằng chứng của sức mạnh và chiều sâu của quyền tối thượng này: do đó nguồn gốc luân lí Anh Cát Lợi đã bị bỏ quên, do đó người ta không còn nhận thấy tính chất tuỳ thuộc lớn lao của quyền tồn tại của nó nữa. Đối với người Ăng Lê, luân lí không còn là một vấn đề nữa…
6.
GEORGE SAND. - Tôi đã đọc những bức thư đầu tiên của tập Lettres d’un voyageur; như tất cả những gì bắt nguồn từ Rousseau, những bức thư đó sai lầm, giả tạo, khoa trương, khoác lác. Tôi không thể chịu nổi thứ bút pháp vàng úa màu giấy dán tường; cũng như tham vọng khơi dậy những tình cảm khoan hồng tầm thường. Điều tồi tệ nhất là sự làm dáng đàn bà với những kiểu cách đàn ông, với những cung cách của hạng thanh niên vô giáo dục. - Bà ta phải lạnh lùng xiết bao với tất cả những điều đó, thứ nghệ sĩ không chịu nổi: bà ta tự lên dây như một cái đồng hồ - và viết… Lạnh lùng như Victor Hugo, như Balzac, như tất cả những kẻ theo phong trào lãng mạn khi họ bắt đầu ngồi vào bàn viết! Và với xiết bao tự mãn bà ta muốn nằm dài ra đó, con bò cái viết lách khủng khiếp có một chút Đức, trong ý nghĩa xấu xa nhất của danh từ, như Rousseau, bậc thầy của bà, kẻ chỉ có thể chịu đựng được khi thị hiếu Pháp đi đến chỗ suy đồi! Nhưng Renan kính phục bà ta…
7.
Luân lí cho những tâm lí gia. - Không đem tâm lí học bán rong! Không bao giờ quan sát chỉ để quan sát mà thôi! Điều đó tạo ra một viễn tượng sai lầm, một cái nhìn xiên lệch, một cái gì bị cưỡng bách và thổi phồng. Cảm nghiệm một điều gì muốn cảm nghiệm - không đem lại kết quả tốt đẹp. Trong khi cảm nghiệm, người ta không được phép nhìn trở lại mình, nếu không mọi cái nhìn đều trở thành “con mắt xấu”. Một tâm lí gia bẩm sinh tự nhiên chống lại việc nhìn chỉ để mà nhìn: một hoạ sĩ bẩm sinh cũng vậy. Hắn không làm việc “phỏng theo thiên nhiên”. - hắn giao cho bản năng, cho phòng tối của hắn, sàng sẩy và gạn lọc “thiên nhiên”, “trường hợp”, “kinh nghiệm sống”… Hắn chỉ ý thức về phổ quát tính, kết luận, kết quả: hắn không biết diễn dịch độc đoán từ trường hợp đặc thù. - Kết quả sẽ ra sao nếu người ta làm ngược lại? Đem tâm lí học đi bán rong, bán sỉ và bán lẻ như những romanciers Ba Lê, chẳng hạn? Như thế là người ta rình chờ thực tại, mỗi buổi chiều mang về nhà một dúm tò mò… Nhưng hãy nhìn hậu quả - một đống lộn xộn, hay hơn nữa một thứ tạp luận, và trong mọi trường hợp một cái gì thêm thắt, nhốn nháo, loè loẹt. Nhóm Goncourts đã đạt đến cực đỉnh tồi tệ của loại này: họ không bao giờ đặt ba câu cạnh nhau mà không làm nhức mắt, mắt nhà tâm lí học - Thiên nhiên, thẩm định theo quan điểm nghệ thuật, không phải là kiểu mẫu. Nó phóng đại, méo mó, để lại những lỗ hổng. Thiên nhiên là sự tình cờ. Nghiên cứu “theo thiên nhiên” đối với tôi dường như là một dấu hiệu xấu: nó phản lại sự phục tòng, yếu đuối! định mệnh thuyết, - sự qui luỵ trước những petits faits [20] này không xứng đáng với một nghệ sĩ hoàn toàn. Nhìn hiện thể của sự vật - điều đó thuộc về một loại đầu óc khác hẳn, những đầu óc phi-nghệ thuật, cụ thể. Người ta phải biết mình là ai…
8.
Về tâm lí học của nghệ sĩ. - Để có nghệ thuật, để có bất cứ một hành động hay một sự chiêm ngắm nghệ thuật nào, một điều kiện sinh lí chuẩn bị này không thể thiếu: sự ngây ngất. Trước hết sự ngây ngất phải nâng cao xúc cảm tính của toàn thể bộ máy: không nghệ thuật nào phát sinh trước khi điều đó xảy ra. Tất cả mọi trạng thái ngây ngất đó, dù nguồn gốc khác nhau thế nào chăng nữa, đều có khả năng tạo ra nghệ thuật này: trên tất cả là sự ngây ngất của kích động dục tình, hình thức xuất thần cổ điển và nguyên thuỷ nhất. Cũng vậy sự ngây ngất đi kèm theo tất cả những ước vọng lớn lao, tất cả mọi cảm xúc mãnh liệt; sự ngây ngất của yến tiệc, của tranh đấu, của hành vi dũng cảm, của chiến thắng, của giao động cùng cực; sự ngây ngất của tàn bạo; sự ngây ngất của phá huỷ; sự ngây ngất dưới một vài ảnh hưởng khí tượng nào đó, chẳng hạn sự ngây ngất của mùa xuân; hay dưới ảnh hưởng của thuốc mê; cuối cùng sự ngây ngất của ý chí chất chứa và căng phồng. - Yếu tính của sự ngây ngất là cảm thức về sự tràn đầy và gia tăng nghị lực. Bị kích thích bởi cảm thức này, người ta buông thả cho sự vật, bắt buộc sự vật tiếp nhận mình, cưỡng bức sự vật, - người ta gọi quá trình này là lí tưởng hoá. Ở đây chúng ta hãy đoạn trừ một thành kiến: sự lí tưởng hoá không hệ tại sự diễn dịch hay giảm trừ cái nhỏ bé và tuỳ phụ như người ta vẫn tin tưởng. Trái lại, việc vạch rõ một cách khủng khiếp những nét chính yếu, để đến nỗi những nét khác biến mất chính là cái quyết định tất cả.
9.
Trong trạng thái này người ta làm giầu tất cả mọi sự bằng chính sự phong phú của mình: điều hắn nhìn, điều hắn muốn, người ta đều thấy nó căng phồng, chặt chẽ, mạnh mẽ, chất chứa sức mạnh. Con người trong trạng thái này biến đổi sự vật cho đến khi chúng phản chiếu sức mạnh của hắn - cho đến khi chúng trở thành những phản ảnh của sự hoàn hảo của hắn. Sự cưỡng bách, biến đổi thành cái hoàn hảo này - là nghệ thuật. Tất cả đối với con người này đều là nguồn hân hoan trào vọt phát xuất tự trong mình; trong nghệ thuật, con người hân hưởng chính con người mình như sự hoàn hảo. Có thể tưởng tượng một trạng thái nghịch lại, một trạng thái phi nghệ thuật đặc thù của bản năng - một cách thế làm nghèo nàn, giảm trừ và làm hao mòn xanh xao tất cả mọi sự. Và quả thật lịch sử đầy rẫy những nghệ sĩ phi nghệ thuật thuộc loại này, những kẻ thiếu sinh lực cần chiếm đoạt tất cả mọi sự vật họ nhìn thấy, tiêu thụ chúng, làm chúng trở nên gầy mòn kiệt quệ. Đó là trường hợp một tín đồ Kitô giáo chính cống, trường hợp Pascal chẳng hạn; một tín đồ Kitô giáo đồng thời là một nghệ sĩ, điều đó không thể có… Đừng người nào trẻ con đến nỗi nêu Raphael hay bất cứ một tín đồ Kitô giáo theo tương đồng liệu pháp [21] thế kỉ thứ mười chín nào để chống lại phán quyết của tôi. Raphael nói ừ [22] , Raphael làm tích cực, do đó, Raphael không phải là một tín đồ Kitô giáo.
10.
Đâu là ý nghĩa của những ý niệm trái nghịch nhau Apollon và Dionysos, cả hai đều được coi như những hình thức ngây ngất mà tôi đã đưa vào thẩm mỹ học [23] - Sự ngây ngất apollinien trước hết kích thích nhãn quan, khiến nhãn quan thủ đắc sức mạnh thị lực. Hoạ sĩ, điêu khắc gia, thi sĩ anh hùng ca đều là những linh tưởng gia par excellence. Trái lại, trong trạng thái dionysien, tất cả hệ thống cảm xúc đều bị kích thích và nâng cao cường độ: đến nỗi nó phóng ra tất cả mọi phương tiện diễn tả bằng cách khu trục tất cả mọi sức mạnh bắt chước, mô phỏng, biến đổi, chuyển hoá, tất cả mọi loại hoạt hoạ theo và nghệ thuật bắt chước. Sự hoá thân dễ dàng vẫn là cái chính yếu, không thể phản động lại (- tương tự như một vài loại bệnh loạn trí, có thể bắt chước điệu bộ đóng bất cứ vai trò nào). Con người dionysien không thể không hiểu bất cứ sự dẫn khởi nào, hắn thủ đắc bản năng thấu cảm và tiên đoán cao độ, giống như hắn thủ đắc đến cao độ nghệ thuật thông tri với người khác vậy. Hắn biết thấu suốt bất cứ vỏ bao bọc nào, đi vào bất cứ cảm xúc nào; hắn thường xuyên biến đổi. - Âm nhạc, như chúng ta hiểu ngày nay, là một sự kích thích và giảm trừ cảm xúc, nhưng dầu vậy đó cũng chỉ là tàn tích của một thế giới của biểu thị tràn đầy hơn, một cặn bã của nghệ thuật riêng biệt, người ta phải bất động hoá một số giác quan, trước hết là những cơ năng, ít ra là một cách tương đối: bởi mọi tiết tấu đều hãy còn nói với những bắp thịt của chúng ta tới một giới hạn nào đó): đến nỗi con người không còn có thể nào bắt chước hay diễn tả bằng thân xác điều hắn cảm thấy được nữa. Tuy nhiên, đó chính là trạng thái dionysien thông thường, ít ra đó là trạng thái uyên nguyên của nó. Âm nhạc là sự cá biệt hoá thành tựu một cách chậm rãi, bằng cách nhờ vào những khả năng gần gũi với nó.
11.
Diễn viên, người diễn hí kịch, vũ viên, nhạc sĩ, thi sĩ trữ tình, rất gần nhau trong bản năng và cốt yếu là một, chỉ sau này mới cá biệt hoá và tách rời nhau ra - đi tới chỗ đối thoại với nhau nữa. Thi sĩ trữ tình đoàn kết lâu nhất với nhạc sĩ, diễn viên với vũ viên. Kiến trúc sư không diễn tả trạng thái dionysien cũng chẳng diễn tả trạng thái apollinien: ở đây là tác động vĩ đại của ý chí, ý chí dịch hải di sơn, sự say sưa của ý chí mạnh mẽ đòi hỏi sự diễn tả nghệ thuật. Những người mãnh liệt nhất luôn luôn gây hứng khởi đến cho kiến trúc sư: kiến trúc sư luôn luôn chịu ảnh hưởng của sức mạnh. Lòng kiêu hãnh, sự chiến thắng trên trọng lượng và trọng lực, ý chí hùng dũng phải được biểu hiện rõ rệt trong một toà lâu đài; kiến trúc là một thứ nghệ thuật hùng biện của sức mạnh bằng hình thể, khi thì hùng hồn thuyết phục hay mơn trớn, khi thì cộc lốc ra lệnh. Cảm thức mãnh liệt nhất về sức mạnh và chắc chắn tìm cách diễn tả trong grand style. Sức mạnh không cần chứng tỏ; khinh thị chiều đãi; không đối đáp hời hợt; không cảm thấy nhân chứng cận kề chung quanh; sống bằng những sự đối kháng người ta dựng lên chống lại mình; an nhiên trong chính mình, tuân theo vận mệnh, một luật lệ giữa những luật lệ: đó là điều nói về mình theo thể cách grand style cao nhã.
12.
Tôi đã đọc về cuộc đời Thomas Carlyle, đúng là trò hề không ý thức và không chủ tâm, sự diễn dịch anh hùng tính - có tính cách luân lí về chứng khó tiêu. - Carlyle, một người có ngôn ngữ và cử chỉ hùng mạnh, một biện luận gia bởi nhu cầu, thường xuyên bị dao động bởi khát vọng một đức tin mãnh liệt và cảm thức về sự bất lực không thể đạt đức tin ấy - (về phương diện này, đó là một người theo phong trào lãng mạn điển hình!) Khát vọng về một đức tin mãnh liệt không phải là bằng chứng của một đức tin mãnh liệt mà hoàn toàn ngược lại. Một khi có đức tin đó, hẳn người ta có thể trả giá sự hoang phí lòng hoài nghi xa hoa: người ta đủ chắc chắn, đủ vững vàng, đủ cố định cho lòng hoài nghi đó. Carlyle làm đinh tai nhức óc một cái gì trong ông với bài hát hùng mạnh ca ngợi những người có đức tin mãnh liệt của ông và sự điên cuồng chống lại những người ít rồ dại hơn của ông: ông cần ồn ào. Một sự thiếu thành thật say đắm thường xuyên với mình - đó là cái độc đáo của ông, chính vì thế mà ông đã và sẽ vẫn còn hấp dẫn. Dĩ nhiên ở Anh, người ta ngưỡng mộ ông chính bởi lòng chân thật của ông… À, đó là một cái gì đặc tính chất Ăng lê; và nếu người ta coi dân Anh là dân tộc giả dối quá đỗi quá chừng, thì điều đó còn hợp lí nữa chứ không phải chỉ dễ hiểu mà thôi. Đáo cùng, Carlyle là một kẻ vô thần Anh Cát Lợi muốn được tôn vinh mình không phải là một kẻ vô thần.
13.
Emeson. - Ông giác ngộ hơn, rộng rãi hơn, đa tài hơn và tế nhị hơn Carlyle rất nhiều, và trên hết, ông hạnh phúc hơn. Ông là một người tự nhiên sống bằng cao lương mĩ vị và gạt ra những thứ khó tiêu trong sự vật. So với Carlyle, đó là một người có khiếu thẩm mĩ. Carlyle, người rất quí mến ông, tuy vậy, nói về ông rằng: “Ông không cho chúng ta đủ ăn”: điều đó có thể đúng nhưng không thiệt hại gì cho Emerson. - Emerson có sự thanh thản tinh thần tốt lành làm nản lòng tất cả những kẻ nghiêm trang; ông không có ý niệm nào về sự kiện ông đã già đến mực nào và ông còn có thể trẻ lại đến mực nào, - ông có thể nói về mình như Lope de Vega: “Yo me sucedo a mi mismo” [24] . Tinh thần ông bao giờ cũng tìm thấy lí do để hạnh phúc và biết ơn nữa; đôi khi ông gần đi tới sự thanh thản siêu việt của con người cao nhã, từ một cuộc hẹn hò yêu đương tamquam re bene gesta trở về, lòng đầy biết ơn và nói: “Ut desint vires, tamen est laudanda volupta” [25] .
14.
Chống-Darwin. - Về nguyên lí lừng danh “đấu tranh để sinh tồn” đối với tôi dường như chỉ có tính cách khẳng định hơn là chứng minh. Nó xảy ra, nhưng như một ngoại lệ; bộ mặt tổng quát của cuộc sống không phải là cùng khổ, đói khát mà đúng hơn là giàu có, xa hoa hay ngay cả hoang phí nữa - nơi nào có tranh đấu là tranh đấu để dành sức mạnh… Không được lầm lộn Malthus [26] với thiên nhiên. - Tuy nhiên, giả dụ rằng có sự tranh đấu này đi nữa chăng - và quả thực, nó xẩy ra thật - kết quả của nó, tiếc thay, lại ngược lại với trường phái Darwin mong mỏi, và ngược lại với điều mà người ta có lẽ có thể mong ước cùng với họ: nghĩa là sự thất bại của những kẻ mạnh, những kẻ thiên bẩm, những ngoại lệ may mắn. Những chủng loại không tăng trưởng ngày một hoàn hảo hơn: những kẻ yếu càng ngày càng thắng lướt kẻ mạnh - bởi chúng thuộc về số đông và bởi chúng khôn khéo hơn… Darwin đã bỏ quên tinh thần (cái đặc biệt Anh Cát Lợi!), những kẻ yếu có nhiều tinh thần hơn. Người ta phải cần tinh thần để đi đến chỗ thủ đắc tinh thần, - người ta mất tinh thần khi không cần đến nó nữa. Kẻ có sức mạnh từ bỏ tinh thần của mình (- “hãy để nó ra đi! người ta nghĩ vậy ngày nay ở Đức - Reich sẽ ở lại cùng chúng ta…) [27] Người ta sẽ thấy rằng tôi dùng chữ tinh thần để ám chỉ sự thận trọng, kiên nhẫn, xảo quyệt, yếm trá, tự chủ mạnh mẽ và tất cả những gì là mô phỏng bắt chước (đặc tính cuối cùng bao gồm phần lớn cái được gọi là đức hạnh).
15.
Quỉ kế của những nhà tâm lí học. - Người này biết rõ bản chất con người: hắn nghiên cứu con người để làm gì? Hắn muốn thủ một chút lợi nhỏ hay một mối lợi lớn nữa trên họ, - hắn là một chính khách!... Người này nữa cũng là một kẻ hiểu tâm lí con người [28] : thế mà bạn lại nói rằng hắn không cầu cạnh điều gì cho hắn cả, rằng hắn sẽ là hoàn toàn “vô ngã”. Hãy nhìn gần hơn! Có thể hắn muốn một lợi ích tồi tệ xấu xa hơn nữa: hắn muốn cảm thấy hắn cao cả hơn con người, có quyền nhìn xuống họ, không hoà lẫn với họ. Mẫu “vô ngã” này là một sự miệt thị con người [29] , trong khi mẫu người thứ nhất nhân loại hơn, mặc dầu bề ngoài thế nào mặc lòng. Ít ra hắn cũng tự đặt mình trên cùng bình diện, hắn tự đặt mình ở giữa mọi người…
16.
Sự khéo léo tâm lí của người Đức đối với tôi dường như khả nghi bởi một loạt những trường hợp mà lòng khiêm tốn ngăn không cho tôi nêu ra. Tuy nhiên có một trường hợp đã cho tôi một cơ hội tốt để lập thuyết của tôi: tôi thù hận dân Đức vì họ đã lầm lẫn về Kant và “Triết lí cửa hậu” của ông, như tôi gọi nó, - bởi đó không phải là mẫu thanh liêm tri thức. - Có điều nữa mà tôi không thể nghe lọt tai là tiếng “và” khả ố: dân Đức nói “Goethe và Schiller”,- tôi sợ họ nói “Schiller và Goethe”. Họ có hiểu Schiller này đã không? - còn có những tiếng “và” tệ hơn nữa; chính tai tôi đã nghe thấy, quả thực chỉ trong đám giáo sư đại học mà thôi: Schopenhauer vàHartmann”…
17.
Những con người tâm linh thẳm sâu nhất, khi nhận họ là những kẻ can đảm nhất, đã cảm nghiệm những bi kịch đau đớn nhất: nhưng cũng chính vì lí do đó mà họ tôn vinh cuộc đời, bởi nó chống lại họ bằng sự đối kháng mãnh liệt nhất.
18.
Nói về “ý thức”. - Ngày nay không có gì hiếm hoi hơn sự giả đạo đức đích thực. Tôi rất hoài nghi rằng khí hậu ôn hoà của nền văn hoá chúng ta không thích hợp cho cái cây này. Sự giả đạo đức thuộc về những thời đại của đức tin mạnh mẽ: trong đó, ngay cả khi bị bó buộc phải phô trương một đức tin khác, người ta vẫn không chối bỏ đức tin riêng của mình; hay, thông thường hơn, người ta thủ đắc một đức tin thứ hai - tuy nhiên, người ta vẫn lương thiện trong bất cứ trường hợp nào. Hiển nhiên, ngày nay người ta có thể có nhiều đức tin hơn ngày xưa: có thể, nghĩa là được phép, nghĩa là vô hại. Từ đó nẩy ra lòng rộng lượng đối với chính bản thân. Sự rộng lượng đối với chính bản thân cho phép có nhiều đức tin; và những đức tin này hoà thuận với nhau, - và, như tất cả mọi người ngày nay, những đức tin này hết sức tránh thoả hiệp với nhau. Ngày nay người ta thoả hiệp với mình bằng cách nào? Bằng cách nhất trí. Bằng cách đi theo một đường thẳng. Bằng cách không hàm hồ, nghĩa là không cho phép năm cách diễn dịch đối kháng nhau một lúc. Bằng cách chân thật… Tôi e rằng con người hiện đại chỉ quá lười biếng đối với một số tật xấu đang bị tiêu diệt. Mọi tội lỗi đều tuỳ thuộc ý chí mạnh và có lẽ không có tội lỗi nếu không có sức mạnh của ý chí, - đều sa đoạ thành đức hạnh trong khí hậu ẩm ướt của chúng ta. Một vài kẻ giả đạo đức hiếm hoi mà tôi biết chỉ bắt chước sự giả đạo đức thôi: như hầu hết một phần mười con người ngày nay, họ là những kẻ đóng kịch.
19.
Đẹp và xấu. - Không có gì tương đối hay bị giới hạn hơn cảm thức về cái đẹp của chúng ta. Bất cứ kẻ nào muốn tách rời cảm thức này khỏi lạc thú con người tìm thấy nơi con người đều lập tức bị chới với ngay. Cái “đẹp tự nội” chỉ là một danh từ, chứ chưa được là một khái niệm nữa. Trong cái đẹp, con người tự đặt mình như tiêu chuẩn của sự hoàn hảo; trong những trường hợp chọn lọc, nó tự ngưỡng mộ mình trong đó. Một chủng loại không thể nào làm khác hơn là tự khẳng định mình theo cách đó. Bản năng hạ đẳng nhất của nó, bản năng tự bảo tồn và trương rộng mình hãy còn tỏ lộ trong những sự thăng hoa này. Con người tin rằng thế giới tự nó chứa đầy vẻ đẹp - nó quên rằng chính nó là nguyên nhân của tất cả những vẻ đẹp này. Nguyên mình nó đã cho thế giới một vẻ đẹp, than ôi! rất phàm phu, quá đỗi phàm phu!... Tóm lại con người đã phản chiếu trong sự vật, nó cho là đẹp tất cả những gì phản ảnh lại cái hình ảnh của chính nó: phán đoán cái đẹp là sự tự mãn chủng loại của nó… Tuy nhiên, một chút nghi ngờ có thể lọt vào tai kẻ hoài nghi: thế giới được tô điểm phải chăng bởi tại chính con người coi nó là đẹp? Con người đã nhân loại hoá thế giới: tất cả chỉ có vậy. Nhưng không có gì, tuyệt đối không có gì đảm bảo cho chúng ta rằng con người chính là khuôn mẫu của cái đẹp. Ai biết được trông hắn giống cái gì trong cặp mắt của một phán quan thẩm mĩ siêu đẳng hơn? Có lẽ hắn là một kẻ hơi hợm mình? Có lẽ hơi tức cười? Có lẽ hơi độc đoán?... “Ôi thần Dionysos, tại sao lại beo tai em như vậy?” Ariane một hôm hỏi người tình triết gia của nàng trong một trong những đối thoại nổi tiếng về Naxos như vậy. “Tôi thấy tai em hơi tức cười, Ariane: tại sao nó lại không dài hơn một chút nữa nhỉ?”.
20.
Không có gì đẹp, chỉ có con người là đẹp: tất cả mọi thẩm mĩ học đều dựa trên sự ngây thơ này, đó là chân lí thứ nhất. Chúng ta hãy thêm ngay chân lí thứ hai: không có gì xấu ngoài con người sa đoạ - lãnh vực của những phán xét thẩm mĩ đã được qui định bằng hai chân lí đó. - Xét về phương diện sinh lí, bất cứ cái gì xấu đều làm con người suy nhược và buồn rầu. Nó nhắc nhở con người tới sự suy đồi, nguy hiểm, bất lực; con người hao tốn sức lực khi đối diện với nó. Người ta có thể đo được hiệu quả của cái xấu bằng lực kế. Tóm lại, bất cứ khi nào con người cảm thấy yếu đuối thì đó là dấu hiệu chứng tỏ nó cảm thấy một cái gì “xấu” đang cận kề. Cảm thức về sức mạnh, ý chí hùng dũng, lòng can đảm, sự kiêu hãnh - tất cả xuống thấp với cái xấu xa, lên cao với cái đẹp… Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều có thể rút ra kết luận này: những tiền đề của chúng được tích chứa dồi dào trong bản năng. Cái xấu được coi như một dấu hiệu và một triệu chứng của suy đồi: cái gì nhắc nhở chúng ta, dù một cách xa xôi, tới sự suy đồi đều gây ra trong chúng ta phán đoán “xấu”. Bất cứ một dấu hiệu bải hoải, nặng nề, già nua, mệt mỏi nào, bất cứ sự câu thúc nào, như sự co quắp, tê liệt, nhất là mùi vị, mầu sắc, hình thể của băng hoại, tan rã, dù chỉ giảm xuống đến độ chỉ còn là một biểu tượng đi chăng nữa - tất cả đều gây ra cùng một phản ứng, phán đoán “xấu”. Một sự thù ghét nổi lên tại đây: nhưng con người ghét cái gì? Không còn hồ nghi gì nữa: sự suy đồi của chủng loại nó. Ở đây, sự thù ghét của nó bắt nguồn từ bản năng chủng loại sâu thẳm nhất của nó, trong sự thù ghét này có sự kinh sợ, thận trọng, chiều sâu, sự thấu suốt - đó chính là sự thù ghét thâm sâu nhất. Chính bởi lẽ đó mà nghệ thuật sâu xa…
21.
Schopenhauer. - Schopenhauer, người Đức đáng kể cuối cùng (- người tượng trưng cho một biến cố Âu Châu, như Goethe, như Hegel, như Henrich Heine, chứ không phải chỉ như một biến cố địa phương, “quốc gia” mà thôi), là một trường hợp thượng đẳng đối với một tâm lí gia: tôi muốn nói như một toan tính khôn ngoan thiên tài viện dẫn những lời khẩn nguyện đối nghịch, nhằm hỗ trợ cho một cuộc hạ giá cuộc đời một cách toàn triệt và theo quan điểm hư vô chủ nghĩa: sự tự khẳng định vĩ đại của “ý chí sống” những hình thức phong phú của cuộc đời. Ông đã lần lượt diễn dịch nghệ thuật, lòng anh hùng, thiên tài, vẻ đẹp, lòng đại từ bi, trí thức, ý chí tìm chân lí, bi kịch, như những hậu quả của sự “phủ nhận” hay nhu cầu phủ nhận của “ý chí” - vụ làm bạc giả tâm lí lớn nhất lịch sử, trừ Kitô giáo. Nhìn gần ông chỉ là kẻ thừa kế của lối diễn dịch Kitô giáo: có điều ông biết cách chấp thuận cái mà Kitô giáo đã khước từ, những sự kiện văn hoá vĩ đại của nhân loại, và chấp thuận chúng theo một quan điểm Kitô, nghĩa là hư vô chủ nghĩa (- nghĩa là ưng chuẩn chúng như những con đường “cứu chuộc”, như những kích thích của nhu cầu “cứu chuộc…”)
22.
Tôi lấy một trường hợp cá biệt. Schopenhauer nói về cái đẹp với một sự hăng say sầu thảm. - Tại sao vậy? Bởi ông nhìn thấy trong đó một cây cầu trên đó người ta có thể đi xa hay trên đó người ta khao khát đi xa… Đối với ông vẻ đẹp là sự giải thoát khỏi “ý chí” trong giây lát - nó lôi cuốn về phía giải thoát vĩnh viễn… Đặc biệt ông ca tụng nó như đấng cứu chuộc khỏi “trung tâm điểm của ý chí”, khỏi nhục tình - trong cái đẹp ông thấy sự phủ nhận xung lực hướng về sự sinh đẻ… Thật là một vị thánh kì dị! Thế nào cũng có kẻ nói ngược lại ông và tôi e rằng đó là thiên nhiên. Vẻ đẹp có trong những âm thanh, mầu sắc, hương thơm, những chuyển động nhijp nhàng của thiên nhiên hướng về cứu cánh nào? Cái gì khiến vẻ đẹp đó hiển lộ? - May mắn thay có một triết gia cũng nói ngược lại ông. Đấng thần linh Platon (chính Schopenhauer gọi như vậy) uy tín ngất trời đã chủ trương một thuyết nghịch lại: một vẻ đẹp khêu gợi, xúi dục sự sinh đẻ - đó chính là hiệu quả đặc biệt của nó, từ cõi miền nhục cảm thấp nhất tới cõi tâm linh cao siêu nhất.
23.
Platon đi xa hơn nữa. Ông nói với sự ngây thơ mà phải là người Hy Lạp chứ không thể là người “Kitô giáo” mới có thể có được, rằng sẽ không thể có mảy may triết lí Platon nào nếu không có những trai tráng xinh đẹp như vậy ở thành phố Nhã Điển: chính khi nhìn thấy họ mà tâm hồn triết gia bay bổng vào cõi mộng tình ngây ngất và không thể an nghỉ cho đến khi nó reo rắc hạt mầm của mọi sự cao siêu vào lòng mảnh đất quá đẹp tươi như thế. Thêm một bậc thánh kì dị nữa - người ta không thể tin tai mình, dù giả thử rằng người ta tin Platon. Ít ra người ta thấy rằng ở Nhã Điển họ triết lí một cách khác hẳn, nhất là trong quần chúng. Không có gì ít tính chất Hy Lạp hơn là ngồi trong xó dệt một cái lưới nhện khái niệm, amor intellectualis dei [30] theo kiểu Spinoza. Triết lí theo kiểu Platon đúng ra phải được định nghĩa như một cuộc tranh biện dâm dật, như một sự khai triển và đào sâu của môn thể dục cổ điển và những điều kiện tiên quyết của nó… Cái gì cuối cùng nẩy sinh ra từ cái dâm triết lí của Platon? Một hình thức nghệ thuật mới của cổ Hy Lạp: biện chứng pháp. Tôi nhắc thêm, chống lại Schopenhauer và để tôn vinh Platon: tất cả mọi nền văn hoá và văn chương cao siêu của nước Pháp cổ điển đều nảy nở trên mảnh đất dục tình. Ở đây người ta có thể tìm thấy khắp chốn sự hào hoa, nhục cảm, sự tranh đua thư hùng, “đàn bà”, - người ta sẽ không bao giờ tìm kiếm vô ích…
21.
L’art pour l’art [31] .- Sự chống đối cứu cánh trong nghệ thuật bao giờ cũng là sự chống đối khuynh hướng đạo đức hoá [32] trong nghệ thuật, chống đối sự lệ thuộc của nghệ thuật vào đạo đức, L’art pour l’art có nghĩa là: “Thây kệ luân lí” - nhưng chính sự thù nghịch này tố cáo rằng thành kiến luân lí hãy còn giữ phần ưu thắng. Khi người ta khai trừ khỏi nghệ thuật mục đích giảng dạy luân lí và cải thiện con người thì không nhất thiết nghệ thuật phải vô mục đích và không có một ý nghĩa nào, tóm lại, l’art pour l’art - một con rắn cắn đuôi chính nó. “Không có một mục đích nào cả tốt hơn là có một mục đích đạo đức!”, đam mê thuần tuý nói như vậy. Một tâm lí gia hỏi ngược lại: tất cả mọi thứ nghệ thuật dùng để làm gì? nó không ca tụng sao? không tán dương sao? không lựa chọn sao? không tỏ lòng yêu quí sao? khi làm thế nó sẽ làm mạnh hay làm yếu đi một số sự thẩm định giá trị… Đó là một cái gì thứ yếu? một sự tình cờ? một cái gì bản năng của nghệ sĩ không tham dự vào chút nào? hay nó không phải là điều kiện tiên quyết cho phép người nghệ sĩ là nghệ sĩ?... Bản năng sâu xa nhất của nghệ sĩ có hướng về nghệ thuật hay đúng hơn về ý nghĩa của nghệ thuật, về cuộc đời, về lòng khao khát cuộc đời? - Nghệ thuật là sự kích thích mãnh liệt hướng về cuộc đời: tại sao người ta có thể coi nó như vô mục đích, nhưl’art pour l’art? - Vẫn còn lại một câu hỏi phải giải đáp: nghệ thuật còn đưa ra ánh sáng nhiều cái xấu xí, cay đắng, hồ nghi trong cuộc đời - chẳng phải vì thế mà nó khiến cho cuộc đời trở nên nhọc nhằn sao? - Và quả thực có những triết gia đem gán cho nghệ thuật ý nghĩa đó: “giải thoát khỏi ý chí” đó là tất cả đối tượng của nghệ thuật theo lời dạy của Schopenhauer, “khiến người ta nhẫn nhục”, đó là lợi ích lớn lao của bi kịch mà ông đề cao. - Nhưng điều này - như tôi đã cho thấy từ trước - là quan điểm và “ác nhãn” của người bi quan. Người nghệ sĩ bi thảm truyền đạt điều gì tới những kẻ khác? Hắn không diễn tả thái độ vô uý trước tất cả những gì khủng khiếp và hồ nghi sao? - chính thái độ này là một điều đáng mơ ước vô cùng: kẻ nào hiểu đều cung kính tôn vinh nó trên tất cả mọi sự. Người nghệ sĩ truyền đạt điều này, phảitruyền đạt điều này nếu hắn là nghệ sĩ, một thiên tài trong nghệ thuật cảm thông. Lòng dũng cảm và bình tĩnh trước kẻ thù hùng mạnh, trước bất hạnh tày trời, trước một vấn đề đầy kinh hoàng - chính thái độ chiến thắng này người nghệ sĩ lựa chọn, ca ngợi. Trước bi kịch, tính hiếu chiến trong tâm hồn chúng ta cử hành những cuộc tế lễ linh đình; kẻ nào tìm kiếm đau khổ, con người anh hùng, tán dương cuộc đời mình bằng bi kịch, - chỉ riêng đối với kẻ đó thôi, người nghệ sĩ bi tráng mới dâng tặng chén tàn bạo ngọt ngào tuyệt vời này. -
25.
Chịu đựng mọi người, mở rộng cửa với tất cả tâm hồn - đó là lòng quảng đại, nhưng chỉ là lòng quảng đại phóng khoáng mà thôi, người ta biết có những tâm hồn hiếu khách cao sang trướng rủ rèm buông: họ để trống những căn phòng tốt nhất. Tại sao vậy? - Bởi vì họ chờ đợi những quí khách mà họ không phải “chịu đựng”…
26.
Chúng ta không tôn trọng mình lắm khi chúng ta thổ lộ mình. Những kinh nghiệm riêng tư đích thực của chúng ta không có nhiều lời. Dù những kinh nghiệm ấy có muốn thổ lộ mình đi chăng nữa cũng không thể được. Ấy là bởi tại chúng ta thiếu lời. Chúng ta đã ở trên bất cứ điều gì mà chúng ta có thể diễn tả bằng ngôn từ. Trong tất cả mọi câu chuyện đều có một chút khinh bỉ. Dường như ngôn ngữ chỉ được tạo ra cho những cái tầm thường, trung bình, có thể thông tri được. Bằng ngôn ngữ, người nói đã tầm thường hoá mình đi ngay khi nói.- Trích luân lí dành cho những kẻ câm điếc và những triết gia khác [33] . -
27.
“Bức tranh này đẹp mê hồn!”… [34] người đàn bà chuộng văn chương, bất mãn, bứt rứt, trong tâm hồn và ruột gan, trống trải, tò mò lắng nghe từng phút, một cách đau đớn, cái mệnh lệnh từ cơ thể sâu kín của nàng thì thầm: “aut liberi aut libri [35] : người đàn bà văn chương học hành đủ để nghe tiếng nói của thiên nhiên, dù cho khi nó nói bằng tiếng Latin, tuy nhiên khá kiêu căng, rỗng tuếch, khá đần độn như ngan ngỗng để bí mật nói thì thầm với mình bằng tiếng Pháp: “je me verrai, je me lirai, je m’extasierai et me dirai: Possible, que j’aie eut tant d’esprit?” [36] …
28.
Những kẻ “vô ngã” nói. - “Đối với chúng ta, không có gì dễ hơn là trở nên khôn ngoan, kiên nhẫn, cao cả. Chúng ta xem xét tỉ mỉ với dầu mỡ bao dung và thiện cảm, chúng ta đẩy công lí đến chỗ phi lí, chúng ta tha thứ cho tất cả. Chính vì thế thỉnh thoảng chúng ta phải nuôi dưỡng một chút đam mê nhỏ, một chút tật xấu nhục tình. Điều đó có thể cực nhọc đối với chúng ta; và khi quây quần thân mật chỉ có chúng ta thôi, có thể chúng ta sẽ cười dáng vẻ bề ngoài ta có vì lẽ đó. Nhưng để làm gì? chúng ta không còn cách nào khác hơn là để tự vượt qua chúng ta: đó là sự khổ hạnh của chúng ta, khổ hình của chúng ta… Trở nên vô ngã - đức hạnh của những kẻ “vô ngã”…
29.
Từ một cuộc thi tiến sĩ. - “Sứ mệnh của tất cả mọi nền giáo dục cao đẳng là gì?” - Là biến con người thành một cái máy. - “Bằng cách nào?” - Phải dạy con người buồn chán. - “Làm thế nào để đạt được điều đó?”- Bằng ý niệm bổn phận.- “Ai là gương mẫu của nó?” - Nhà ngữ học: hắn dạy cách nhá [37] . - “Ai là con người hoàn toàn?” - Công chức nhà nước. - “Triết học nào cho người công chức nhà nước công thức tốt nhất?” - Triết học của Kant: người công chức nhà nước với tư cách vật tự nội đặt trên người công chức nhà nước với tư cách hiện tượng. -
30.
Quyền ngu ngốc. - Người công nhân mệt mỏi, hơi thở chậm rãi, mắt nhìn dịu dàng, để sự vật tự do lưu chuyển: nhân vật điển hình này, mà ngày nay, trong Thời Đại của Lao Động (và của “Reich”! nữa -) người ta gặp trong mọi giai cấp xã hội đang đòi hỏi nghệ thuật, gồm cả sách vở và, trước hết, báo chí - nhất là vẻ đẹp của thiên nhiên Ý Đại Lợi chẳng hạn… Con người của buổi tối, vói “những bản năng man rợ ngủ say” [38] mà Faust nói, con người này cần dưỡng sức, tắm biển, trượt băng, Beyreuth [39] … Trong những thời đại như thời đại của chúng ta, nghệ thuật có quyền hoàn toàn điên khùng [40] như một thứ nghỉ hè của tinh thần, trí tuệ và cảm giác. Wagner hiểu điều đó. Sự điên khùng hoàn toàn là liều thuốc bổ…
[1]Nietzsche dùng chữ này đầu tiên trong “Phổ hệ luân lí”, chỉ những con người hùng mạnh cao quí như những anh hùng của Homère, những hải tặc Viking - Ghi chú của Dịch giả.
[2]Giai cấp hạ lưu ngoài lề xã hội - G.c.D.
[3]Môi nhỏ. - G.c.D.
[4]Sự xảo trá thành tín - G.c.D.
[5]Trong sự nhơ nhớp tự nhiên.
[6]Der Trompeter von Sackingan, tác phẩm nổi tiếng của Joseph Victor von Scheffel. - G.c.D.
[7]Sữa dồi dào
[8]Con bò sữa “đẹp mã”
[9]Anh em Goncourt
[10]Pháp văn trong nguyên bản: khoa học và quí phái. - G.c.D.
[11]Pháp văn trong nguyên bản: phúc âm của những kẻ bần cùng. - G.c.D.
[12]Pháp văn trong nguyên bản: xoi mói, dèm pha
[13]Pháp văn trong nguyên bản: lòng hờn oán, hiềm khích
[14]Pháp văn trong nguyên bản: phong trào hay chủ trương lãng mạn
[15]Pháp văn trong nguyên bản: kẻ (sự) phóng túng, vô kỉ luật, vô tôn giáo
[16]Gương Chúa Jesus, tác phẩm nổi tiếng của Thomas à Kempis (1379 – 1471)
[17]Nghĩa đen: mà không cảm thấy một sự đối kháng sinh lí (ohne einen physiologischen Widerstand).
[18]das Ewig-Weibliche, một trong những câu thơ cuối cùng trong tác phẩm Faust của Goethe (“Người nữ đời đời kéo chúng ta lên cao), đối tượng chế giễu của Nietzsche.
[19]Pháp văn trong nguyên bản: kiểu Eliot
[20]Pháp văn trong nguyên bản: sự kiện nhỏ nhặt
[21]Homospathische hay là phép lấy bệnh trị bệnh
[22]Nói ừ, sagen ja là thuật ngữ Nietzsche dùng để chỉ thái độ khẳng định tích cực đối với cuộc đời của kẻ chấp nhận cuộc đời với tất cả những gì kinh khủng, bi đát nhất của nó, một dionysien, tín đồ của Dionysos - kẻ khẳng định vĩ đại.
[23]Trong Sự khai sinh của bi kịch. - G.c.D.
[24]Tôi chính là kẻ kế vị tôi. - G.c.D.
[25]“Mặc dù thiếu sức mạnh, nhưng dục vọng thì thực đáng khen.”
[26]Kinh tế học gia người Anh (1766- 1834), chủ trương hạn chế nhân khẩu. - G.c.D.
[27]Nietzsche đổi lại câu cuối cùng bài Ein fester Burg của Lutther, đại ý: những gì thuộc về trần gian này hãy ra đi, ở lại những gì thuộc về Reich, nước thiên đàng. - G.c.D.
[28]Menschenkenner
[29]Nguyên văn: một kẻ miệt thị con người - Menschen-Verächter - G.c.D.
[30]“Tình yêu Thượng đế bằng tinh thần”. - G.c.D.
[31]Pháp văn trong nguyên bản: “Nghệ thuật vị nghệ thuật”.
[32]Tức chủ trương “văn dĩ tải đạo”. - G.c.D.
[33]So sánh Lão Tử: “Đạo khả Đạo, phi thường Đạo. Danh khả Danh, phi thường Danh”, “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” và Héraclite: “Kẻ im lặng bao giờ cũng đẹp.”
[34]Dòng mở đầu nhạc khúc: “Tiếng sáo mê hồn” của Mozart.
[35]Trẻ con hay sách vở. - G.c.D.
[36]Tôi sẽ thấy chính tôi, ta sẽ đọc tôi, tôi sẽ xuất thần và tôi sẽ nói: Có thể tôi có nhiều tinh thần đến thế kia ư?- Galiani: thư gửi bà Épinay ngày 18 tháng 9 năm 1709. Nguyên văn không có dấu phết sau chữ Possible - G.c.D.
[37]Nguyên tác: ochsen: làm việc siêng năng vất vả, còn có nghĩa là học hành chuyên cần, học gạo. - G.c.D.
[38]Lấy trong câu thơ của Goethe: “Entschlafen sind nun wilde Triebe” (Faust, Hồi I, cảnh 3.)
[39]Nơi Wagner ở, thỉnh thoảng có tổ chức hoà nhạc.
[40]Parsifal, nhân vật chính trong vở nhạc kịch cuối cùng của Wagner được mô tả như một kẻ trong trắng, thuần khiết, điên khùng (reine Tor), Nietzsche cho câu truyện Parsifal là phi lí và dùng chữ reine Torheit (thuần tuý điên) theo nghĩa hoàn toàn điên. - G.c.D.